Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh thế giới thứ nhất”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
|caption =
|date = {{start and end dates|1914|7|28|1918|11|11|df=yes}}<br>({{Age in years, months, weeks and days|month1=7|day1=28|year1=1914|month2=11|day2=11|year2=1918}})<br>(ngưng chiến)<br>[[Hòa ước Versailles]] ký ngày 28 tháng năm 1919
|place = [[Châu Âu]], [[Châu Phi]], [[Trung Đông]] và [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] [[Thái Bình Dương]]
|casus = Mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn tại châu Âu<br>[[Vụ ám sát thái tử Áo-Hung|Vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand]] ([[28 tháng 6]])<br>Áo-Hung tuyên chiến với [[Serbia]] ([[28 tháng 7]]); Nga kéo quân vào [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] ([[29 tháng 7]]).
|result = Phe Hiệp ước [[chiến thắng kiểu Pyrros]]<br>Các Đế quốc Nga, Đức, Áo-Hung và Ottoman sụp đổ;<ref name="Tucker123"/><br>Kinh tế Anh, Pháp suy kiệt;<ref name="Romano161"/><br>Đức bị mất nhiều lãnh thổ và phải bồi thường khoản tiền rất lớn, nhưng nền công nghiệp ít bị tổn hại<ref name="Posen109">Barry R. Posen, ''The sources of military doctrine: France, Britain, and Germany between the world wars'', trang 109</ref><br>Hoa Kỳ thu lợi nhuận lớn và vượt lên các nước châu Âu về kinh tế<br>Nhiều quốc gia mới tại châu Âu và Trung Đông được thành lập<br>[[Hội nghị Versailles; ]]<br>Thành lập [[Hội Quốc Liên|Hội quốc liên]].|combatant1='''[[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ nhất|Entente]] (Hiệp ước)'''
{{plainlist|
* {{flagcountry|British Empire}}
* {{flagcountry|French Third Republic}}
* {{flagcountry|Russian Empire}} <small>(1914–17[[1914]]–[[1917]])</small>
* {{flagcountry|Kingdom of Italy}}<small>(1915–18[[1915]]–[[1918]])</small>
* {{flagcountry|United States|1912}} <small>(1917–18[[1917]]–[[1918]])</small>
* {{flagcountry|Kingdom of Romania}} <small>(1916–18[[1916]]–[[1918]])</small>
* {{flagcountry|Empire of Japan}}
* {{flagcountry|Kingdom of Serbia}}
* {{flagcountry|Belgium|state}}
* {{flagcountry|Kingdom of Greece}} <small>(1917–18[[1917]]–[[1918]])</small>
* {{flagicon|Bồ Đào Nha}} [[Đệ Nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha|Bồ Đào Nha]] <small>(1916–18[[1916]]–[[1918]])</small>
* {{flagcountry|Kingdom of Montenegro}} <small>(1914–16[[1914]]–[[1916]])</small>
* {{flagicon|Brazil}} [[Brasil]] <small>(1917–18[[1917]]–[[1918]])</small>
----
''Hỗ trợ bởi:''<br />
Dòng 33:
* {{flagcountry|Austria-Hungary}}
* {{flagcountry|Ottoman Empire}}
* {{flagcountry|Kingdom of Bulgaria}} <small>(1915–18[[1915]]–[[1918]])</small>
----
* [[Vương quốc Jabal Shammar|Jabal Shammar]]
Dòng 126:
}}
 
'''Chiến tranh thế giới thứ nhất''', còn được gọi là '''Đại chiến thế giới lần thứ nhất''', '''Đệ Nhất thế chiến''' hay '''Thế chiến I''', diễn ra từ [[28 tháng 7 năm |28/7]]/[[1914]] đến -[[11 tháng 11 năm |11/11]]/[[1918]], là một1 trong những cuộc [[chiến tranh]] quyết liệt, quy mô to lớn nhất trong lịch sử nhân loại; về quy mô và sự khốc liệt nó chỉ đứng sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].
 
Cuộc chiến tranh này là một trong những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn nhất trong [[lịch sử thế giới]].<ref name="Tucker123"/> Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp [[châu Âu]] và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc [[châu Âu]] và [[Bắc Mỹ]] vào vòng chiến với số người chết trên >19 triệu người với sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. [[Phụ nữ]] phải làm việc thay [[nam giới]], đồng thời sự phát triển của kỹ nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của [[không quân]] và [[xe tăng]] trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này.<ref name="Romano161">Michael J. Romano, ''CliffsAP European History'', trang 161</ref><ref>[[David William Fraser|David Fraser]], ''The Grenadier Guards'', trang 22</ref> ''[[Chiến tranh chiến hào]]'' gắn liền với cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.<ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: encyclopedia'', Tập 1, trang 1175</ref>
 
Đây là cuộc chiến giữa phe ''[[Entente|Hiệp Ước]]'' (chủ yếu là [[Đế quốc Anh|Anh]], [[Pháp]], [[Đế quốc Nga|Nga]], và sau đó là [[Hoa Kỳ]], [[Brasil]]) và phe ''[[Liên minh Trung tâm|Liên Minh]]'' (chủ yếu là [[Đế quốc Đức|Đức]], [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]], [[Bulgaria]] và [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]]). Cuộc Đại chiến mở đầu với sự kiện [[TháiVụ ám sát thái tử Áo-Hung|sự kiện Hoàng thái tử]] Áo-Hung bị ám sát]], dẫn đến việc người Áo - Hung tuyên chiến với [[Serbia]].<ref>Nigel Thomas, Dušan Babac, ''Armies in the Balkans 1914-18'', các trang 3-4.</ref><ref>Nigel Thomas, Dušan Babac, ''Armies in the Balkans 1914-18'', trang 19</ref> Sự kiện này được nối tiếp bởi việc [[Hoàng đế Đức]] là [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] truyền lệnh cho các tướng xua quân tấn công [[Bỉ]], [[Luxembourg]], và [[Pháp]], theo [[kế hoạch Schlieffen]].<ref>Samuel Lyman Atwood Marshall, ''World War I'', các trang 51-58.</ref> Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận tiền, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong một1 trong những cuộc chiến tranh lớn nhất trong sử sách.<ref>{{harvnb|Keegan|1988|p=8}}</ref><ref>{{harvnb|Bade|Brown|2003|pp=167–168}}</ref> Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, [[Pháp]] là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị khánh kiệt, dẫn tới đại bại của họ trong các cuộc chiến tranh về sau.<ref>Karl-Heinz Frieser, John T. Greenwood, ''The Blitzkrieg legend: the 1940 campaign in the West'', trang 320</ref><ref name="adas188"/> Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp.<ref>Spencer E. Ante, ''Creative capital: Georges Doriot and the birth of venture capital'', trang 28</ref> Một1 trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là tại [[Trận Verdun|Verdun]] cùng năm đó, khi quân Đức tấn công [[thành cổ Verdun]] của Pháp, nhưng không thành công.<ref name="SirAlistairHorne328331">Sir Alistair Horne, ''The Price of Glory: Verdun 1916'', các trang 328-331.</ref> Tuy nhiên, trận chiến đẫm máu nhất là tại [[Trận Somme (1916)|sông Somme]] ([[1916]]), khi liên quân [[Anh]] - [[Pháp]] đánh bất phân thắng bại với quân Đức.<ref>Richard Evans, ''Disasters That Changed Australia'', trang 29</ref>, trong khi chiến dịch quân sự lớn nhất là [[Cuộc tổng tấn công của Brusilov]], khi quân Nga đánh bại liên quân Áo-Hung và Đức.
 
Tất cả những [[Đế quốc quân chủ]] (trừ [[Đế quốc Anh]]) đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này. Đảng [[Bolshevik]] lên nắm quyền tại nước [[Nga]] sau cuộc [[Cách mạng Tháng Mười|cách mạng tháng Mười]] lật đổ [[Sa hoàng|Nga hoàng]], trong khi việc Đức bại trận lại tạo điều kiện cho [[Đức Quốc xã]] lên nắm quyền tại Đức nhờ biết khai thác tâm lý bất mãn của người dân.<ref name="Tucker123"/> Tuy nước [[Đức]] thua cuộc nhưng về [[thương mại]][[công nghiệp]] họ không bị tổn hại gì lớn (ít ra vẫn hơn hẳn Pháp<ref name="Posen109"/>), vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.<ref name="Fischer190"/>
 
Không có một1 nước châu Âu nào thật sự chiến thắng cuộc chiến tranh này, tất cả đều chịu tổn hại nặng nề về người và của. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng [[Khủng hoảng kinh tế|khủng hoảng]] và những cao trào [[chủ nghĩa dân tộc|dân tộc chủ nghĩa]] trỗi dậy ở các nước bại trận.<ref name="Tucker123">Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: encyclopedia'', Tập 1, trang 123</ref> Điển hình là ở [[Thổ Nhĩ Kỳ]], bão táp phong trào [[Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ|Cách mạng Giải phóng Dân tộc]] rầm rộ, đưa dân tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Entente phải xóa bỏ những điều khoản khắc nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt.<ref>Patrick Howarth, ''Intelligence chief extraordinary: the life of the ninth Duke of Portland'', trang 42</ref><ref>Michael Graham Fry, Erik Goldstein,Richard Langhorne, ''Guide to International Relations and Diplomacy'', trang 146</ref> Nước duy nhất không bị tàn phá mà còn thu được lợi nhuận lớn từ cuộc chiến này là [[Hoa Kỳ]], nó đã tạo điều kiện cho nước này vượt trên các nước châu Âu về kinh tế kể từ sau cuộc chiến.
 
Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ "Đại chiến" ('''Great War'''). Vài thập kỷ sau, tên gọi '''Chiến tranh thế giới lần thứ nhất''' (World War I) mới được áp dụng để phân biệt với cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].<ref>Sparknotes [http://www.sparknotes.com/history/european/ww1/context.html Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]</ref> Đương thời, nó còn được gọi với cái tên "Cuộc chiến tranh chấm dứt mọi cuộc chiến tranh" (The war to end all wars) bới quy mô và sự tàn phá khủng khiếp nó gây ra.<ref>{{Chú thích web | url =http://news.bbc.co.uk/2/hi/special_report/1998/10/98/world_war_i/198172.stm|tiêu đề=The war to end all wars|nhà xuất bản=BBC| ngày tháng=ngày 10 tháng 11 năm 1998| ngày truy cập =ngày 15 tháng 12 năm 2015}}</ref> Chính những vấn đề liên quan tới [[Hòa ước Versailles|Hiệp định Versailles 1918]] (1918) đã khiến cho cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh thế giới lần thứ hai]] bùng nổ.<ref>{{harvnb|Keegan|1988|p=11}}</ref>
 
== Mục đích ==
 
Đây là một1 cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm sụp đổ bốn4 đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là [[Đế quốc Nga]], [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]], [[Đế quốc Áo-Hung]] và [[Đế quốc Ottoman]], làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và "[[Tân Thế giới|thế giới mới]]" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo [[chủ nghĩa cộng sản]] tại Nga, [[chủ nghĩa quân phiệt]] và [[chủ nghĩa phát xít]] tại [[Ý]], [[Đức]] và [[Nhật Bản|Nhật]], sự chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc... Những vấn đề đó sẽ dẫn đến bùng nổ [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]. Đó là lý do một số nhà nghiên cứu cho rằng [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] chỉ là sự nối tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất sau gần 20 năm tạm nghỉ lấy sức.
 
Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa hai2 khối liên minh quân sự được hình thành sau [[thế kỷ XIX]]: một1 bên là liên minh ba3 đế quốc [[Anh]] - [[Pháp]] - [[Đế quốc Nga|Nga]], hay được gọi là khối Hiệp ước [[Entente|Entente ba bên]] (trong [[tiếng Pháp]] ''entente'' có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước) sau này còn thêm [[Hoa Kỳ]] và một1 số nước khác tham gia; bên kia là phe [[Liên minh Trung tâm]] (''Central Powers'', hay còn gọi là Liên minh ba3 nước) gồm Đức, Áo – Hung]] và Ottoman.
 
. Tuy nhiên sau đó Ý chiến đấu bên phía Entente ba3 bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng minh là [[Đế quốc Ottoman]] và [[Bulgaria]]. Trong khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente ba3 bên khá đồng đều trong việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò các đồng minh chính là mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, hai2 cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của châu Âu là Đức và Anh.<ref>[[Dennis Showalter|Dennis E. Showalter]], ''Tannenberg: Clash of Empires 1914'', trang 1</ref>
 
== Quy mô, tính chất ==
[[Tập tin:Map 1914 WWI Alliances.jpg|nhỏ|phải|400px|Các nước tham chiến tại châu Âu. Hình dáng tiểu bang [[Illinois]] nằm ở bên trái để có thể so sánh diện tích.<br />{{legend|#f3514f|Khối Trung tâm (Central Powers)}}{{legend|#79ee7b|Khối Liên minh (Entente Powers)}}{{legend|#f7f260|Các nước trung lập}}]]
Về khía cạnh [[chính trị]][[quân sự]] đây là lần đầu tiên thế giới biết đến một1 kiểu [[chiến tranh toàn diện|chiến tranh tổng lực]], [[chiến tranh toàn diện]]. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp nghẹt [[kinh tế]] của nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu đựng của dân tộc, thử thách [[tiềm lực kinh tế]] và sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ dù quân đội của họ vẫn còn hiện hữu (đặc biệt [[Quân đội Đức Quốc Xã|quân đội Đức]] vẫn còn đang trên đất đối phương, và quân địch còn chưa xâm phạm tới lãnh thổ của họ). Các nước này đã thua trận vì [[xã hội]] kiệt sức, không thể kham nổi chiến tranh – một1 kiểu [[chiến tranh tiêu hao]] với cường độ cực cao, khiến chính phủ của họ bị các lực lượng trong nước lật đổ.
 
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra theo một1 kiểu [[chiến lược]] [[chiến tranh hiện đại]]. Trước đây châu Âu đã từng có các cuộc chiến theo [[liên minh]] nhiều nước như [[Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha]], [[Chiến tranh Kế vị Áo]], [[Chiến tranh Bảy năm]], [[Các cuộc chiến tranh của Napoléon|Chiến tranh Napoléon]], v.v... Nhưng những cuộc chiến đó có kết quả chiến tranh phụ thuộc vào một1 hoặc vài trận đánh lớn có tính quyết định diễn ra trong 1–21-2 ngày tại một1 điểm quyết chiến hoặc một vài chiến dịch trong vài tuần hoặc một vài tháng, các hoạt động chiến sự xen kẽ với hoà bình. Kết cục chiến tranh không triệt để: thua trận thì ký [[hoà ước nhượng bộ]], chờ vài năm hồi phục tiềm lực rồi lại tham chiến tiếp (điển hình như các cuộc chiến thời [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]]). Các cuộc chiến đó phụ thuộc rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, vào tài thao lược của nhà cầm quân. Còn từ nay, kể từ Thế chiến I, lần đầu tiên nhân loại chứng kiến một kiểu chiến tranh lâu dài, quy mô, huỷ diệt. Chiến sự dàn trải trên khắp chiến trường, khắp cả châu lục. Vai trò cá nhân của thống soái trong chiến tranh bị hạn chế mà tiềm lực kinh tế và ý chí, sức mạnh tinh thần của quốc gia nổi lên là yếu tố quyết định.
 
Trên chiến trường về khía cạnh thuần tuý quân sự đây là một cuộc chiến tranh đã có các đặc trưng hiện đại: quân đội là [[quân đội đông đảo]]. Lần đầu tiên trên thế giới chiến tranh theo chiến thuật [[đội hình tản mác]] không còn các khối quân lực xếp hàng [[Tấn công (quân sự)|tấn công]][[Phòng thủ (quân sự)|phòng thủ]] theo [[đội hình ô vuông]] dày đặc rất đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh trước đây. Cuộc chiến tranh này đặc trưng áp đảo bởi hình thức [[chiến tranh trận địa]] mà điển hình nhất là hệ thống chiến hào trở thành phương tiện phòng thủ chính yếu, thành quách [[pháo đài]] đã không còn vai trò phòng ngự quan trọng nữa. Các bên phòng thủ trong [[chiến hào]] với hệ thống ụ [[súng máy]], [[dây thép gai]], [[bãi mìn]] và [[trận địa pháo]] dày đặc với [[chiến tuyến]] ngăn đôi giữa hai2 phía đối địch. [[Chiến tranh trận địa]] hay [[chiến tranh chiến hào]] ở thời kỳ đó thường có tính chất là rất khó tấn công và rất dễ phòng thủ nên chiến tranh có diễn biến chậm chạp ít năng động ít có các chiến thắng quân sự dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của các bên đối kháng đối với gánh nặng chiến tranh tiêu hao tổng lực.
 
Trong lực lượng Hiệp Ước, Anh-Pháp và Nga chia sẻ gánh nặng chiến tranh tương đối đồng đều trong khi phe Liên Minh chỉ có thể trông cậy vào nước Đức là chủ yếu.
Dòng 159:
:''Xem bài chính'': [[Vụ ám sát thái tử Áo-Hung]].
 
Sự việc Đại công tước ([[tiếng Đức]]: ''Erzherzog'', tiếng Anh: ''Archduke'') [[Thái tử Franz Ferdinand của Áo|Franz Ferdinand]] của Áo - Hung bị một1 phần tử [[chủ nghĩa dân tộc|dân tộc chủ nghĩa]] người [[Serbia]] tên là [[Gavrilo Princip]] ám sát tại [[Sarajevo]] vào ngày [[28 tháng 6|28/6]] năm /[[1914]] được coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt nước tràn ly". Vụ ám sát thái tử Áo-Hung chỉ là cái cớ để các bên chính thức khai chiến sau một1 thời gian dài chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị chiến tranh. Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia ở châu Âu đã chín muồi, các bên tham chiến từ trước đó khá lâu đã có các mâu thuẫn đối kháng với nhau, và muốn triệt hạ nhau bằng quân sự để phân chia lại thế giới.
 
Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:
 
==== [[Chủ nghĩa đế quốc]] và sự tranh giành [[thuộc địa]] ====
[[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] và những người [[Bolshevik]], cùng một1 phần lớn những người [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]] của châu Âu phân tích có cơ sở rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các nước [[chủ nghĩa đế quốc]] cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất [[chiến tranh đế quốc]]: đó là cuộc chiến nhằm tranh giành, phân chia lại [[thuộc địa]] giữa các nước đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.
 
[[Tập tin:China imperialism cartoon.jpg|nhỏ|200px|phải|Biếm họa các nước [[Anh]], [[Đức]], [[Nga]], [[Pháp]], và [[Nhật Bản|Nhật]] tranh nhau chiếm thuộc địa ở Trung Quốc. Trong bức tranh, vua nước Đức (đội mũ chóp nhọn) tỏ thái độ căm ghét rõ ràng với [[Nữ Hoàng Anh|nữ hoàng Anh]]]]
Theo phân tích của Lenin, nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn ngay từ giữa thế[[Thế kỷ 16|thế kỷ XVI]]: ở thời điểm này, các nước châu Âu bắt đầu hình thành [[chủ nghĩa tư bản]]. Để tìm kiếm tài nguyên và lợi nhuận, các nước [[thực dân]] châu Âu bắt đầu bành trướng lãnh thổ, đem quân xâm chiếm các nước châu Á, châu Phi để biến các nước này thành [[thuộc địa]]. Đến cuối thế[[Thế kỷ 19|thế kỷ XIX]], về cơ bản thì tất cả châu Á, châu Phi đã bị biến thành thuộc địa. Nhưng sự phân chia thuộc địa giữa các nước châu Âu là rất không đồng đều. Anh-Pháp là 2 nước đã xâm chiếm thuộc địa từ khá sớm nên chiếm được rất nhiều thuộc địa, trong khi các nước châu Âu khác thì chiếm được ít hơn nhiều.
 
Đến cuối thế[[Thế kỷ 19|thế kỷ XIX]], sự lớn mạnh của [[Đế quốc Đức]] sau [[Chiến tranh Pháp-Phổ]] đã đẩy mạnh những tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này. Đến đầu thế[[Thế kỷ 20|thế kỷ XX]], Đế quốc Đức đã vượt qua Anh, Pháp để trở thành cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu và đứng thứ 2 thế giới (sau Mỹ). Nhưng trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa, Đức lại là nước chậm chân, bởi đến cuối thế[[Thế kỷ 19|thế kỷ XIX]], hầu hết châu Á và châu Phi đã bị Anh, Pháp chiếm làm thuộc địa. Năm [[1913]], tổng diện tích các thuộc địa của Đức chỉ là 2,9 triệu km2km<sup>2</sup>, trong khi nước Anh có tới 34 triệu km2km<sup>2</sup>, Pháp có gần 13 triệu km2km<sup>2</sup>. Do quy mô thuộc địa không tương xứng với tiềm lực công nghiệp (ít thuộc địa thì tức là có ít [[tài nguyên]] và thị trường tiêu thụ), Đức là nước [[hiếu chiến]] nhất trong thời kỳ này. Ngoài ra, nước Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống [[Chủ nghĩa quân phiệt|quân phiệt]] [[Phổ]]: đề cao [[chủng tộc Đức]], tích cực truyền bá tinh thần [[kỷ luật quân đội]], [[chạy đua vũ trang]]. Lenin đã tổng kết đặc trưng của nước Đức thời kỳ này là ''"chủ nghĩa đế quốc quân phiệt, hiếu chiến"''.
 
Nhưng tham vọng của Đức gặp phải sự phản kháng của các nước ''"đế quốc già"'' là nước Anh, Pháp và Nga. Các "đế quốc già" này về cơ bản đã chiếm lĩnh gần hết những thuộc địa bao la khắp thế giới và muốn duy trì quyền thống trị của mình, không muốn "chia phần" cho những thế lực mới nổi như Đức. [[Đế quốc Áo–Hung]] và [[Đế quốc Ottoman]] từ lâu đã suy yếu, nhưng vẫn muốn có đủ "tư cách" và vai trò để tranh giành ảnh hưởng trong khu vực [[Trung Âu]], [[Balkan]] và [[Kavkaz]]. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng với nhau...
 
Do có cùng mục tiêu tranh giành thuộc địa với Anh-Pháp, nước Đức đã cùng Áo - Hung, Italia thành lập “phe Liên Minh” vào năm [[1882]] để chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới. Để đối phó, Anh đã ký với Nga và Pháp những Hiệp ước tay đôi hình thành phe Hiệp ước (đầu [[Thế kỷ 20|thế kỷ XX]]). Từ đó, ở châu Âu đã hình thành 2 khối quân sự đối đầu nhau. Hai2 bên ra sức chạy đua vũ trang, chuẩn bị cho chiến tranh. Một1 cuộc chiến tranh đế quốc nhằm phân chia thuộc địa trên thế giới không thể tránh khỏi.
 
Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một1 cuộc "chém giết lớn" để phân định lại ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới, theo đó các thế lực mới nổi (đứng đầu là [[Đế quốc Đức]]) mong muốn đánh bại các thế lực cũ (Anh, Pháp, Nga) để chiếm lấy thuộc địa của kẻ thua.
 
Mặt khác, việc phát động chiến tranh của các nước đế quốc còn nhằm đối phó với những bất ổn trong nội bộ quốc gia. Đầu [[Thế kỷ 20|thế kỷ XX]], phần lớn giai cấp lao động ở các nước bị bóc lột nặng nề, đời sống rất khốn khó (công nhân thường xuyên phải làm việc 12 giờ/ngày, đồng lương lại thấp, việc sa thải diễn ra bừa bãi, trẻ em 12 tuổi đã phải đi làm công nhân phụ giúp cha mẹ...). Sự áp bức đó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa người lao động với chủ tư bản, nhiều quốc gia đã tiềm ẩn [[Cách mạng|phong trào cách mạng]] (đặc biệt là ở [[Nga]], [[Đức]] và [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]]). Việc phát động chiến tranh sẽ kích thích tinh thần ái quốc của người dân, làm họ quên đi các vấn đề trong nước và xoa dịu mâu thuẫn trong lòng các nước đế quốc.
 
==== Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt ====
Từ nguyên nhân mâu thuẫn lợi ích, sự thèm muốn tranh giành thuộc địa đã dẫn tới một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra, là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và chủ nghĩa quân phiệt của các đế chế:
* '''[[Liên minh quân sự theo khối]]''': Trong các mâu thuẫn và tương đồng quyền lợi, các quốc gia tìm kiếm lôi kéo các nước có cùng lợi ích để thành lập các hiệp ước liên minh quân sự để tăng cường thế lực, bành trướng ảnh hưởng. Việc này làm cho tình hình thế giới càng trở nên cực kỳ căng thẳng vì bất cứ một1 xung đột quốc gia nào đều có thể trở thành xung đột quốc tế, điều này là rất điển hình cho Thế chiến I. Và thực tế cho thấy từ một1 sự kiện ám sát có tính dân tộc trong một1 Đế chế Áo - Hung, mâu thuẫn đã được cộng hưởng, khuếch đại và trở thành chiến tranh thế giới.
[[Tập tin:Austrianinf.jpg|nhỏ|phải|300px|Lính Áo trên chiến trường]]
* '''[[Chạy đua vũ trang]]''': điển hình là trước thế chiến Anh Quốc cho hạ thuỷ lớp [[thiết giáp hạm|chiến diệt hạm]] [[Dreadnought]] với các tính năng chiến đấu cách mạng trên biển, tạo nên chạy đua vũ trang quyết liệt giữa Anh Quốc và Đức. Việc các quốc gia chạy đua vũ trang để duy trì và giành ưu thế quân sự trên bộ và trên biển dẫn đến sự phản ứng tương ứng của phía đối địch. Kết quả là cả hai2 phe đều cảm thấy bị đe doạ từ phía bên kia và lại càng chạy đua vũ trang và lại bị đe doạ ở mức độ mới cao hơn. Đây cũng là một1 nguyên nhân gây nên chiến tranh.
* '''[[Chủ nghĩa quân phiệt]]''': tại các quốc gia quân chủ chuyên chế như Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo - Hung và Đế quốc Ottoman và cả ở các quốc gia khác thì tầng lớp quân nhân, tướng lĩnh có một thế lực và ảnh hưởng rất lớn. Họ không hề bị kiểm soát bởi các thiết chế dân chủ, lại rất gần gũi [[Hoàng đế]] và luôn có xu hướng hiếu chiến và tinh thần ái quốc mãnh liệt của [[chủ nghĩa Sô vanh|chủ nghĩa Sôvanh]] (''chauvinism'').
 
==== Chủ nghĩa dân tộc ====
Sau [[thế kỷ XIX]] tại châu Âu khi những giá trị tự do cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức về [[quyền dân tộc tự quyết]] của các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi kèm với chủ nghĩa xô-vanhSôvanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề. Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối cùng.
 
[[Chủ nghĩa dân tộc]] là nguyên nhân chính của vụ ám sát hoàng tử Áo-Hung tại [[Bosna và Hercegovina|Bosnia]]. [[Đế quốc Nga]] và [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]] đã đi đến chiến tranh tại Balkan năm [[1878]]. Sau cuộc chiến, Nga có ảnh hưởng lớn ở [[Balkan]]. Áo-Hung lại điều khiển chính phủ ở [[Bosna và Hercegovina|Bosnia]] và năm 1908 thì gạt [[Thổ Nhĩ Kỳ]] ra khỏi đây, nắm toàn bộ ảnh hưởng ở Bosnia. Nga vận động các nước còn lại trên bán đảo Balkan lập ra [[Liên minh Balkan]] hi vọng khối này sẽ đẩy lùi Áo-Hung. Nhưng do những mâu thuẫn trước kia đối với Đế chế Ottoman, khối này đã không chống lại Áo-Hung mà gây [[Chiến tranh Balkan lần thứ nhất]]|Chiến nămtranh Balkan lần thứ nhất 1912-1913]] với Thổ Nhĩ Kỳ. Song do sự phân chia quyền lợi không đều, [[Chiến tranh Balkan lần thứ hai]]|Chiến nămtranh Balkan lần thứ hai 1913]] lại bùng phát, và [[Bulgaria]] là nước bại trận. Đến năm [[1914]], Thổ Nhĩ Kỳ gần như chỉ có một1 ít ảnh hưởng ở bán đảo này, chủ yếu ở [[Albania]]. Áo-Hung lại trở thành kẻ thù lớn của Liên minh Balkan. [[Serbia]], nước theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất tại Balkan lúc này đã vận động chủ nghĩa dân tộc Bosnia là nước có chung đường biên giới với Serbia để đánh đuổi Áo-Hung ra khỏi Balkan. Một1 phần tử được trợ giúp bởi tổ chức dân tộc [[Bàn tay đen]] của Serbia đã ám sát hoàng tử Áo-Hung vào [[28 tháng 6|28/6]] năm /[[1914]]. Sau đó, Áo-Hung đe dọa Serbia và một1 tháng sau, Áo-Hung tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày [[28 tháng 7|28/7]] năm /[[1914]].
 
==== Chiến tranh là tất yếu? ====
Trong các học giả thế giới khi đề cập nguyên nhân chiến tranh có xuất hiện câu hỏi: Liệu có thể tránh được cuộc chiến tranh này không? Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan như vậy thì ở tầm quốc tế và lịch sử nhân loại có thể nói: với trình độ giác ngộ chính trị của nhân loại vào đầu [[thế kỷ XX]], khi tư duy chính trị vẫn là tư duy nước lớn, tư duy đế quốc chủ nghĩa, khi cách tiếp cận các vấn đề quốc tế luôn theo nguyên tắc "tối đa quyền lợi cho mình, tối thiểu cho đối phương" thì Chiến tranh thế giới thứ nhất là "phải xảy ra và không thể tránh được". Cuộc chiến này sẽ cùng với [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] sẽ tập cho nhân loại phải suy nghĩ theo kiểu tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, các bên cùng có lợi". Để nhận thức được như vậy nhân loại phải trả giá gần cả trăm triệu mạng người trong hai2 cuộc đại chiến và các cuộc chiến khác trong [[Thế kỷ 20|thế kỷ XX]]. Đó là bài học chính trị quý giá nhất của đại chiến mà nhiều khi nơi này hay nơi khác bài học đó vẫn còn bị "lãng quên".
 
=== Các quan tâm quyền lợi ===
==== Các nước tham chiến ====
* '''[[Anh]]''': Chặn đứng tham vọng tranh giành thuộc địa, chia lại thị trường của Đế chế Đức. Ngăn cản ảnh hưởng của nước này, cố gắng giới hạn Đức trong phạm vi châu Âu không để nước này thành [[cường quốc đại dương]] đe dọa quyền lợi thương mại thuộc địa của mình. Hạ cấp Đế quốc Ottoman và Đế quốc Áo - Hung xuống thành những cường[[Cường quốc hạng hai|cường quốc hạng 2]] để chiếm lĩnh quyền lợi tại khu vực [[Trung Đông|Trung Cận Đông]] rất nhiều [[dầu mỏ]].
* '''[[Pháp]]''': Cũng giống như Anh nhưng ngoài ra còn để phục thù [[Chiến tranh Pháp-Phổ|Chiến tranh [[Pháp-Phổ 1870-1871]] (1871) quyết giành lại hai2 tỉnh [[Alsace]] và [[Lorraine]] từ Đức. Hạ bậc Đế quốc Đức để trừ mối hoạ sau này (sau chiến tranh phía Pháp đề nghị trong [[Hòa ước Versailles|Hội nghị Versailles]] một1 hình thức bồi thường [[chiến phí]] khủng khiếp để Đức không bao giờ ngóc đầu dậy được).
* '''[[Đế quốc Nga|Nga]]''': Loại bỏ sự can thiệp và ảnh hưởng của Đức tại [[Ba Lan]], [[Ukraina]] và vùng [[BiểnCác nước Baltic|Baltic]], loại bỏ sự cản trở của Đế quốc Ottoman khỏi các vùng [[Kavkaz]] và [[Balkan]]s và loại bỏ sự xuất hiện của Áo-Hung tại Balkan. Xâm chiếm các vùng ảnh hưởng của Ottoman và Áo-Hung.
* '''[[Đế quốc Đức|Đức]]''': Thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh-Pháp, đòi hỏi một1 thị trường, thuộc địa tương xứng với tiềm lực cường quốc thế giới của mình. Mở rộng vùng ảnh hưởng của mình về [[Đông Âu|phía Đông]] tại [[Ba Lan]], [[Ukraina]], [[Các nước Baltic|Baltic]], sau đó là [[Phần Lan]].
* '''[[Đế quốc Áo-Hung|Áo – Hung]]''': Nỗ lực cuối cùng chứng tỏ mình còn là một1 cường quốc, cố giữ lại những gì còn giữ được trước sự nhòm ngó của các cường quốc khác. Hai2 địch thủ trước mắt của Áo – Hung là Nga và Ý.
* '''[[Đế quốc Ý|Ý]]''': Một1 cường quốc đang lên nhưng chưa định hình, muốn có một1 vai trò và tiếng nói lớn hơn ở châu Âu và đặc biệt tại Balkans. Trở lực chính của nước này đầu tiên là Anh sau đó định hướng lại chĩa mũi nhọn đấu tranh vào Áo - Hung.
* '''[[Đế quốc Ottoman|Ottoman]]''': Đây là một1 đế chế lâu đời và [[lạc hậu]] ở [[Trung Đông|Trung Cận Đông]] bị Anh, Pháp, Nga chèn ép ở Cận Đông (Anh, Pháp) và tại Kavkaz và Balkans (Nga). Đây là nỗ lực cuối cùng để duy trì đế chế.
* '''[[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]]''': Cũng là một1 cường quốc đang lên. Sau [[chiếnChiến tranh Nga-Nhật]], Nhật Bản trở thành cường quốc và có tham vọng được xâm chiếm cả [[Trung Hoa Dân Quốc|Trung Quốc]], gây ảnh hưởng ở [[Đông Nam Á]]. Sau khi ký kết [[Hiệp ước Anh-Nhật]]|Hiệp nămước Anh-Nhật [[1902]], Nhật Bản chĩa súng vào Đức và Áo-Hung.
 
Ngoài ra các đế quốc quân chủ Nga, Đức, Ottoman, Áo-Hung, Nhật Bản muốn dùng chiến thắng trong chiến tranh với tinh thần yêu nước dâng cao để trì hoãn cải cách dân chủ, xã hội trong nước.
 
==== Các nước đồng tham chiến khác ====
* '''[[Hoa Kỳ]]''': Giống như Ý và Nhật, Hoa Kỳ cũng là một1 cường quốc đang nổi. Hoa Kỳ muốn có ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới, và yêu cầu các nước tôn trọng quyền lợi của Hoa Kỳ trên toàn cầu, trong đó có cả châu Âu, châu Á và châu Phi. Đức và Anh không ủng hộ lắm về việc này. Ban đầu Hoa Kỳ không tham chiến, chỉ đứng ngoài bán vũ khí thu [[lợi nhuận]]. Nhưng đến cuối năm [[1917]], nhận thấy nếu Đức thắng lợi thì các quyền lợi của Hoa Kỳ ở châu Âu sẽ bị đe dọa, nước này quyết định tham chiến cùng Anh và Pháp.
* '''[[Đế quốc Brasil|Brazil]]''': Từng là một1 [[đế quốc Brasil|đế quốc]], song Brazil vẫn không từ bỏ tham vọng được gây ảnh hưởng trên thế giới. Brazil đã có ý định can thiệp vào chiến tranh từ năm [[1914]], nhưng phải chờ khi Hoa Kỳ tuyên chiến, thì Brazil mới vào cuộc.
* '''[[România|Romania]]''': Là một1 quốc gia được Nga giải phóng khổi ách cai trị của [[người Thổ Nhĩ Kỳ|người Thổ]], Romania có tham vọng được tham chiến cùng Nga trong chiến tranh. Romania muốn có ảnh hưởng ở vùng [[Transilvania]] vốn đang bị kiểm soát bởi Áo-Hung và gây ảnh hưởng lên các nước Balkan khác. Romania còn muốn giành lấy vùng [[Românească|Wallachia]] khỏi tay [[người Áo]]-[[người Hungary|Hung]].
* '''[[Đế quốc Bulgaria|Bulgaria]]''': Là nước mạnh nhất vùng Balkan. Bulgaria nung nấu tham vọng phục thù sau chiến[[Chiến tranh Balkan lần thứ hai|Chiến tranh Balkan lần 2]] bằng việc đòi lại quyền lợi ở [[Macedonia]] và bán đảo [[Tiểu Á]].
* '''[[Đế quốc Hy Lạp|Hy Lạp]]''': Muốn chiếm lại những vùng đất đã mất dưới tay người Thổ. Chiếm đảo [[Cộng hòa Síp|Síp]] và chiếm lại cố đô [[Istanbul|Constantinople]].
* '''[[Bồ Đào Nha]]''': Theo Anh, không muốn chia thị trường cho Đức.
* '''[[Bỉ]]''': Có quyền lợi giống như Anh, nhưng do lãnh thổ nhỏ và dân số ít nên chấp nhận [[Trung lập (chiến tranh)|trung lập]]. Song sau khi Đức xâm lược Bỉ, nên Bỉ tuyên chiến. Ngoài ra Bỉ còn muốn giành lấy phần còn lại của vùng [[Wallonie]] khỏi tay [[người Đức]].
* '''[[Serbia]]''': Là nước mang nặng chủ nghĩa dân tộc nhất vùng Balkan. Serbia muốn chiếm toàn bộ Balkan, chủ yếu là [[Bosna và Hercegovina|Bosnia]], [[Croatia]] và [[Slovenia]] khỏi tay Áo-Hung.
 
==== Các nước trung lập có liên quan ====
* '''[[Đế quốc Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]]''': Là một1 cựu [[Đế quốc Tây Ban Nha|đế quốc]] đã suy yếu và khủng hoảng trầm trọng, thậm chí nặng hơn Nga, Tây Ban Nha đã vậy còn thua trận trong [[chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ|chiến tranh với Hoa Kỳ]]. Khi cận kề chiến tranh, vua [[Alfonso XIII của Tây Ban Nha|Alfonso XIII]] đã quyết định trung lập. Tuy vậy, Tây Ban Nha dường như khá ủng hộ Đức để phục thù Anh và Hoa Kỳ, những nước có mâu thuẫn gay gắt với Tây Ban Nha trong lịch sử.
* '''[[México]]''': Là quốc gia có biên giới chung với Hoa Kỳ. Sau [[chiếnChiến tranh Hoa Kỳ-México]], México đã bị Hoa Kỳ cướp mất một1 phần lãnh thổ lớn ở phía Bắc mà ngày nay đã sáp nhập vào Hoa Kỳ. México có tham vọng trả thù Hoa Kỳ nên đã dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, cuộc [[Cách mạng Mexico]] đã khiến Mexico lục đục, dẫn đến hai2 phe phái thân Mỹ-Anh và thân Đức, trong đó, [[Pancho Villa]], một1 người theo chủ nghĩa dân tộc, đã ủng hộ Đức chống lại Hoa Kỳ trong khi phe chính phủ của [[Porfirio Díaz]] và sau đó là [[Victoriano Huerta]] thì ủng hộ Anh-Mỹ.
* '''[[Đế quốc Hà Lan|Hà Lan]]''': Là một1 [[Đế quốc Hà Lan|đế quốc]] già và ốm yếu, nhưng Hà Lan đã tránh xung đột thành công với Đức và sau đó là Anh. Khi gần xảy ra xung đột giữa Anh và Đức, Hà Lan, bất chấp được Anh mời chào, vẫn tuyên bố trung lập.
* '''[[Đế quốc Thụy Điển|Thụy Điển]]''': Giống Brazil, Thụy Điển là một1 cựu [[Đế quốc Thụy Điển|đế quốc]], song lại thiếu tham vọng. Tuy nhiên, khi gần chiến tranh, Thụy Điển cũng tuyên bố trung lập, song thái độ của Thụy Điển, cùng với Tây Ban Nha, lại khá ủng hộ Đức vì một1 lý do: thù địch dai dẳng với Nga trong lịch sử, chủ yếu về lãnh thổ [[Phần Lan]]. Thụy Điển đã cho các tàu chiến và tàu ngầm Đức đóng quân tại các căn cứ hải quân của Thụy Điển.
* '''[[Đan Mạch]]''': Khi Đức còn mang tên [[Vương quốc Phổ|Phổ]], Phổ đã đưa quân tấn công Đan Mạch và thắng lớn trong [[Chiến tranh Schleswig lần thứ hai|chiếnChiến tranh Schleswig]]. Từ đó, Đan Mạch liên tục thù hằn Phổ và sau đó là Đức, nên tuy tuyên bố trung lập, song Đan Mạch vẫn ngầm ủng hộ Anh. Thêm nữa là xích mích với Thụy Điển cũng khiến Đan Mạch thêm thù địch với Đức.
* '''[[Na Uy]]''': Là một1 vương quốc độc lập nhưng lệ thuộc Thụy Điển, Na Uy tỏ ra ủng hộ Thụy Điển hơn so với các nước khác. Khi xảy ra nguy cơ chiến tranh, Na Uy và Thụy Điển tuyên bố trung lập, nhưng ủng hộ Đức.
* '''[[Ba Tư]]''': Ba Tư, dưới sự lãnh đạo của [[triều đại Pahlavi]], đã liên tục bị châu Âu chèn ép. Tuy nhiên, triều đình ở đây lại bị chính phủ Thụy Điển, một1 nước thân Đức, khống chế. Ba Tư muốn đòi lại quyền lợi chính đáng, song do bị Thụy Điển kiểm soát nên liên tục gặp khó khăn.
 
== Diễn biến ==
{{chính|Diễn biến Chiến tranh thế giới thứ nhất}}
[[Tập tin:German troops on the Belgian frontier HD-SN-99-02292.JPEG|nhỏ|230px|Quân Đức tiến công Bỉ năm [[1914]]]]
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra chủ yếu trên 3 chiến trường chính: [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]], [[mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] và [[Mặt trận phía Nam (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Nam]]. Trong đó mặt trận phía Tây giữa liên quân Pháp – Anh chống lại quân Đức có vai trò chính yếu quyết định số phận chiến tranh vì ở đây tập trung binh lực lớn nhất có chất lượng cao nhất của cả hai2 phía. Mặt trận phía Đông là chiến trường giữa quân Nga chống Đức và Áo – Hung, mặt trận này có quy mô và tầm quan trọng không bằng mặt trận phía Tây và quân Nga thường thất bại trước quân Đức nhưng luôn làm quân đội Đức, Áo - Hung phải chiến đấu trên hai mặt trận không thể huy động tổng lực lực lượng khả dĩ cho một1 chiến thắng quyết định trong chiến tranh. Mặt trận phía Nam có tầm quan trọng thấp chủ yếu với một1 lực lượng quân đội nhỏ bé và chỉ có ý nghĩa khu vực. Mặt trận phía Nam lại phân nhỏ thành các chiến trường: [[Mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận Ý-Áo]] – đối chọi của quân Ý – Áo tại vùng biên giới hai nước; [[mặt trận Balkan|chiến trường Balkan]]: liên quân Đức, Áo – Hung, Bulgaria chống Serbia và về sau có trợ giúp của Anh, Pháp cho Serbia; [[mặt trận Trung Cận Đông|chiến trường Trung Cận Đông]]: Liên quân Anh, Pháp chủ yếu là Anh chống Ottoman; [[mặt trận Caucasus (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|chiến trường Kavkaz]]: Nga chống Ottoman.
 
=== 1914: Đức phải chiến đấu trên hai2 mặt trận ===
Ngày [[1 tháng 8|1/8]] năm /[[1914]] Đức tuyên chiến với Nga, ngày [[3 tháng 8|3/8]] với Pháp; ngày [[4 tháng 8|4/8]] Anh tuyên chiến với Đức và đổ bộ vào lục địa. Chiến tranh lớn đã nổ ra.
 
==== Mặt trận phía Tây ====
{{chính|Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)}}
 
Ngày [[2 tháng 8|2/8]] năm /[[1914]], quân Đức chiếm [[Luxembourg]] và hai2 ngày sau tràn vào [[Bỉ]], vi phạm tình trạng [[trung lập]] của nước này để lấy đường tiến vào miền bắcBắc nước Pháp. [[Kế hoạch Schlieffen]] của bộ tổng chỉ huy Đức tính toán rằng: cuộc tấn công bất ngờ qua Bỉ đánh thẳng vào Bắc Pháp, là khu vực ít bố phòng, sẽ nhanh chóng loại nước này ra khỏi chiến tranh trong vòng 40 ngày, trước khi quân đội Nga kịp tổng động viên và tập hợp; sau khi đánh tan quân Pháp thì ĐứccĐức sẽ điều quân quay sang [[mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía Đông]] giải quyết quân Nga và kết thúc chiến tranh.
 
Kế hoạch này là quá sức với Đức: ban đầu quân Đức giành được lợi thế trong [[các trận đánh biên giới (1914)|các trận đánh biên giới]] và tiến nhanh về phía [[Paris]] hòng đánh chiếm thủ đô nước Pháp, và người Đức sắp sửa giành được chiến thắng lớn nhằm quyết định kết cục chiến tranh. Nhưng khi đi sâu vào đất Pháp, lực lượng Đức dần bị dàn mỏng khiến các chỉ huy quân Đức bắt đầu mắc sai lầm. Ở phía đông, quân Nga cũng bắt đầu tấn công lãnh thổ Đức vào ngày [[17 tháng 8|17/8]], sớm hơn nhiều so với dự kiến của Đức là 40 ngày. Điều này khiến Đức phải rút bớt quân từ mặt trận Pháp để chuyển sang phía đông chặn đánh quân Nga, làm yếu đi lực lượng xung kích đang tấn công vào Pháp.
 
Thế rồi, trong [[trận sông Marne lần thứ nhất]] vào [[Tháng chín|tháng 9 năm ]]/[[1914]] quân Đức đánh bất phân thắng bại với liên quân Pháp - Anh. Quân Đức phải lui binh về cố thủ, quân Pháp quá kiệt quệ nên không thể truy kích, nên cả hai2 đoàn quân không bên nào có thể giành thế thượng phong. Chiến tranh trên mặt trận phía Tây dần đi vào hình thức [[chiến tranh chiến hào]] (''Stellungskrieg''), và tình hình cứ thế trong suốt bốn4 năm chiến tranh.<ref>Jonathan Martin Kolkey, ''Germany on the march: a reinterpretation of war and domestic politics over the past two centuries'', trang 190</ref><ref>Heinrich August Winkler, ''Germany: the long road west'', Tập 2, trang 304</ref><ref>Jackson J. Spielvogel, [http://books.google.com.vn/books?id=fwxLkRmd-4QC&pg=PT439&dq=%22marne%22+%2B+%22stalemate%22#v=onepage&q=%22marne%22%20%2B%20%22stalemate%22&f=false ''Western Civilization: Since 1500'']</ref> Trận đánh kế tiếp tại [[Trận sông Aisne lần thứ nhất|Aisne]] còn khốc liệt hơn cả trận sông Marne, diễn ra từ ngày [[13 tháng 9|13]] cho đến ngày -[[28 tháng 9|28/9]] năm /[[1914]]. Cả hai2 bên đều mất hàng chục ngàn binh sĩ, nhưng rồi đây vẫn là một1 trận chiến bất phân thắng bại.<ref>Henry William Elson, ''Modern times and the living past'', trang 657</ref>
 
Kế hoạch [[đánh nhanh thắng nhanh]] của Đức như vậy là đã bị phá vỡ.
 
==== Mặt trận phía Đông ====
{{chính|Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)}}
[[Tập tin:Siberian warsaw.jpg|nhỏ|230px|Lính Nga tại [[Warszawa]], nay là thủ đô [[Ba Lan]] năm [[1914]]]]
Để giúp đồng minh đang khó khăn tại mặt trận Pháp – Bỉ, đầu [[Tháng chín|tháng 9 năm ]]/[[1914]] quân đội Nga tổng tấn công trên 2 hướng: [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] đối đầu với Áo-Hung và đặc biệt là tấn công rất nhanh, mạnh vào [[Đông Phổ]] thuộc Đức. Vào ngày [[17 tháng 8|17/8]] năm /[[1914]], Quân đội Đức đánh thắng quân Nga trong trận đánh mở đầu tại [[Trận Stallupönen|Stallupönen]] - một1 chiến thắng nhỏ nhưng có tầm quan trọng về chiến lược.<ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: encyclopedia'', Tập 1, trang 113</ref> Các cuộc tấn công sau đó của quân Nga đã thắng lợi nhưng thiệt hại nặng về nhân mạng: đánh lui quân đội Đức trong [[trận Gumbinnen]] và quân đội Áo – Hung tại Galicia,.<ref>Marc Ferro, ''Nicholas II: last of the tsars'', trang 160</ref> Đông Phổ có nguy cơ mất vào tay Nga.
 
Để cứu nguy cho [[Tập đoàn quân số 8 (Đức)|tập đoàn quân số 8]] của mình đang phòng thủ Đông Phổ, Đức phải điều bớt những lực lượng xung kích từ phía Tây sang Đông Phổ và kết quả là trong nửa cuối [[Tháng tám|tháng 8]], quân Đức do vị tướng [[Paul von Hindenburg]] chỉ huy đã đánh tan quân Nga ở [[trận Tannenberg]],<ref name="GilesDonogh435">[[Giles MacDonogh]], ''The Last Kaiser: The Life of Wilhelm II'', trang 435</ref> Nga mất 30.000 lính và bị bắt 95.000 tù binh, phía Đức chỉ mất 3.436 người chết và 6.800 bị thương. Trận thắng này đã chặn đứng [[Tập đoàn quân số 1 (Nga)|tập đoàn quân số 1]] và bao vây tiêu diệt hoàn toàn [[Tập đoàn quân số 2 (Nga)|tập đoàn quân số 2]] của [[phương diện quân Tây Bắc (Đế quốc Nga)|phương diện quân Tây Bắc]] của Nga, tư lệnh tập đoàn quân số 2 là tướng [[Aleksandr Vassilievich Samsonov]] buộc phải [[tự sát]], quân Nga bị đuổi khỏi Đông Phổ. Đây là một1 chiến thắng lớn của quân lực Đức trong suốt Đại chiến thứ nhất,<ref>Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 45</ref> có ảnh hưởng lớn đến tinh thần của dân tộc Đức, là trận đánh đáng ghi nhớ trong lòng toàn dân Đức thời đó.<ref>Dennis E. Showalter, ''Tannenberg: Clash of Empires 1914'', trang 2</ref> Quân Đức cũng đánh bại quân Nga trong [[trận Lyck]] vài ngày sau đó.<ref name="GilesDonogh435"/> Tuy nhiên, về mặt chiến lược thì cuộc tấn công của Nga đã diễn ra sớm hơn nhiều so với dự tính của Đức, khiến Đức phải rút bớt những lực lượng xung kích từ mặt trận Pháp, qua đó góp phần phá vỡ chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của Đức và giảm bớt gánh nặng cho quân Anh-Pháp đang bị Đức áp đảo.
 
Ở phía đông nam thì quân Áo–Hung lại để quân Nga đánh tan nát ở [[Trận Lemberg (1914)]]. Quân đội Áo-Hung thất bại nặng nề với 450.000 thương vong (100.000 chết, 220.000 bị thương và 130.000 bị bắt làm [[tù binh]]), trong khi Nga bị tổn thất khoảng 240.000 người (bao gồm 40.000 bị bắt làm tù binh). Một số người [[Tiệp Khắc]] và [[người Slav]] không chịu chiến đấu cho quân đội Áo-Hung nên đã ra đầu hàng hàng loạt.<ref>Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (1998), ''Lịch sử thế giới cận đại'', Nhà xuất bản Giáo dục, trang 290.</ref> Kết thúc năm [[1914]] tại chiến trường Đông Âu, quân Nga chiếm lĩnh toàn bộ vùng phía đông của Galicia chạy dài tới chân [[núi Carpathian]]. Người Nga suýt nữa đã tiến được đến bình nguyên [[Hungary]] vào cuối [[Tháng chín|tháng 9]] nhưng họ đã dừng tiến quân vì hậu cần gặp khó khăn và bị tổn thất nặng.<ref name="geoffrey342">{{harvnb|Geoffrey Parker|2006|p=342}}</ref>
 
Quân Nga rõ ràng chưa chuẩn bị tốt cho chiến tranh, trình độ sĩ quan và binh lính lạc hậu nên không thể chống lại các cuộc tấn công có tổ chức tốt của Đức, nhưng Đức lại phải chống chân cho Đế quốc Áo-Hung bị coi là "bất tài". Quân đội Nga phải chuyển sang phòng ngự. Quân Đức cũng không tấn công thêm, mặt trận phía Đông đi vào ổn định. Chỉ trong 1 năm [[1915]], hơn 1 triệu quân Nga bị liên quân Đức - Áo bắt giữ, nhưng hơn 1 triệu lính Áo-Hung và Đức cũng đã bị Nga bắt giữ làm tù binh.<ref>Elite 078 - Trench Warfare WWI 1914-1916 Nhà xuất bản Osprey tr 17</ref>
 
Như vậy Quân đội Đức đã phải bị động đánh nhau trên hai2 mặt trận và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của nước này đã thất bại. Các bên tham chiến đi vào [[chiến tranh chiến hào]]. Thực chất, đây không phải là lần đầu tiên người Đức phải chiến đấu trên hai2 mặt trận: trong cuộc [[Chiến tranh Bảy năm|Chiến tranh Bảy Năm]] ([[1756]] - [[1763]]), [[Phổ (quốc gia)|Vương quốc Phổ]] dưới sự lãnh đạo tài tình của vua [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] ([[1712]] - [[1786]]) cũng đã lâm vào tình trạng "lưỡng nan thọ địch" (người Phổ đã chiến thắng cuộc chiến tranh này do nữ hoàng Nga qua đời đột ngột khiến liên quân Nga-Áo-Pháp bị mâu thuẫn nội bộ).<ref>Jonathan Martin Kolkey, ''Germany on the march: a reinterpretation of war and domestic politics over the past two centuries'', trang 98</ref><ref>Anne Commire, ''Historic World Leaders: Europe (A-K)'', trang 462</ref>
 
==== Diễn biến ở các chiến trường khác trong năm 1914 ====
[[Đế quốc Nhật Bản]] lợi dụng việc các cường quốc đang tham gia cuộc chiến tranh ở [[Châu Âu]] đã quyết định thực hiện kế hoạch bành trướng ở [[Viễn Đông]]. Ngày [[15 tháng 8|15/8]] /[[1914]] Nhật Bản gửi tối hậu thư cho Đức đòi nước này chuyển cho Nhật Bản vùng [[Giao Châu]] ([[Trung Quốc]]) và hạn cho Đức phải trả lời trong 8 ngày. Đức không trả lời tối hậu thư của Nhật Bản nên ngày [[23 tháng 8|23/8]] năm /[[1914]], Nhật Bản tuyên chiến với Đức và nhanh chóng chiếm Giao Châu và tuyến đường sắt [[Thanh Đảo]]-[[Tế Nam]] (Trung Quốc) và một1 loạt hòn đảo là thuộc địa của Đế chế Đức tại [[Thái Bình Dương]]. Ngày [[11 tháng 11|11/11]] /[[1914]], [[Thanh Đảo]], thuộc địa của Đức ở Trung Quốc, đầu hàng Nhật Bản sau 43 ngày bị bao vây. Sau những hoạt động quân sự này, Nhật Bản không có hoạt động nào khác tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
 
Ngày [[21 tháng 9|21/9]] /[[1914]], quân [[Úc]] chiếm đóng [[New Guinea]] là [[thuộc địa]] của Đế chế Đức ở Thái Bình Dương. Ngày [[5 tháng 11|5/11]] /[[1914]], quân Đức chiến thắng quân [[Anh]] ở [[Đông Phi]] thuộc Đức (nay là [[Tanzania]]). Năm ấy, [[Sultan]] Ottoman là [[Mehmed V]] phản đối liên minh Đức - Ottoman. Nhưng rồi, theo lời khuyên của Bộ trưởng Chiến tranh [[Ismail Enver]], Mehmed V với tư cách là Sultan kiêm [[Khalip]] phát động [[Thánh Chiến|Thánh chiến]] (''Jihad'') chống phe Entente.<ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: encyclopedia'', Tập 1, trang 778</ref>
 
=== 1915 – 1916: Đức chủ động tấn công ===
* '''Chiến tranh chiến hào trên các chiến trường''':
 
*==== '''Chiến tranh chiến hào trên các chiến trường''': ====
Sau thất bại của kế hoạch năm [[1914]] nhằm loại Pháp ra khỏi vòng chiến, nước [[Đức]] đã rơi vào thế bị động: tiềm năng kinh tế quân sự không bằng liên minh [[Anh]] – [[Pháp]] – [[Nga]] mà lại thực tế phải một1 mình đối đầu trên hai2 mặt trận. Tình trạng này càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức. Để thoát thế kẹt trên hai2 mặt trận, năm [[1915]] Đức tấn công quy mô lớn ở [[hướng Đông|phía Đông]] để loại [[Nga]] ra khỏi chiến tranh và năm [[1916]] tổng tấn công để loại Pháp nhưng đều không thành. Trong hai2 năm này đánh nhau rất to thương vong của hai2 bên là cực lớn, nhất là năm [[1916]] tại mặt trận phía Tây.
 
==== Mặt trận phía Đông 1915 – 1916 ====
Dòng 290:
 
==== Tại các mặt trận phía Nam 1915 – 1916 ====
Ngày [[23 tháng 5|23/5]] năm /[[1915]], Ý gia nhập khối Đồng minh ba bên (Anh- Pháp- Nga) để chống Áo,. [[14 tháng 10|14/10]] năm /[[1915]] Bulgary tham gia vào phe liên minh Đức, - Áo để chống Serbia. Mặt trận phía Nam tuy quy mô nhỏ nhưng sôi động hẳn lên.
 
* '''Chiến trường Ý – Áo''': tháng 5 năm 1915 quân Ý mở [[chiến dịch Isonzo]] chống quân Áo nhưng thất bại và bị Áo phản công chiếm [[Gorizia]] sau lợi thế nhỏ bé này mặt trận Ý – Áo đi vào ổn định cho đến tận cuối năm 1917.
Dòng 297:
* '''Chiến trường Kavkaz''': Tại Kavkaz quân Nga có lực lượng nhỏ hơn nhưng đã đại thắng quân Ottoman tại [[trận Sarikamis]] (từ 29 tháng 12 năm 1914 đến 4 tháng 1 năm 1915) sau đó trong năm 1915, 1916 và cho đến tận cuối năm 1917 khi Nga sụp đổ vì cách mạng, quân Nga tại Kavkaz liên tiếp đánh lui quân Ottoman, tiến lên chiếm xứ nay là [[Armenia]]. Vì người Armenia theo [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] có cảm tình với Nga nên chính quyền Đế quốc Ottoman đã thi hành chính sách [[vụ diệt chủng người Armenia|diệt chủng người Armenia]] làm gần 1 triệu người Armenia chết, có chấn động lớn trong dư luận châu Âu và thế giới về Thế chiến I.
 
=== 1917: Năm bản lề ===
Năm này là [[năm bản lề]] của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh.
 
Dòng 304:
[[Hình:Machine gun corps Gaza line WWIb edit2.jpg|nhỏ|Một quân đoàn súng máy của đế quốc Ottoman tại tuyến phòng thủ Tel esh Sheria và Gaza vào năm 1917]]
 
* '''Chiến trường Trung Cận Đông:''' quân Anh liên tiếp chiến thắng quân Ottoman và chiếm [[Bagdad|Baghdad]] ([[Iraq]]) tháng 3 năm 1917 và tổ chức thành công [[chiến dịch Sinai]] và [[chiến dịch Palestine]] chiếm [[Jerusalem]] vào [[Tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1917]].
* '''Chiến trường Ý – Áo''': tại chiến trường này cuối năm 1917 khi cách mạng nổ ra ở Nga, không còn mặt trận phía Đông, quân Đức – Áo được tiếp viện một lực lượng hùng hậu trong đó có các đơn vị xung kích của Đức làm nòng cốt, đã tổ chức [[trận Caporetto|chiến dịch Caporetto]] ([[26 tháng 10|26/10]] năm /[[1917]]) và đã thắng lợi vang dội tiêu diệt 6 vạn và bắt gần 30 vạn quân Ý. Quân Anh, Pháp phải cứu viện lập phòng tuyến cố thủ tại [[trận sông Piave (1918)|sông Piave]]. Và thế trận dừng lại ở đây cho đến hết chiến tranh. Tuy thắng lợi của Đức, Áo tại Caporetto rất to lớn nhưng vai trò thứ yếu của mặt trận Ý – Áo không làm đảo lộn thế chiến lược của chiến tranh và thực lực của phe Trung tâm cũng không cho phép phát triển thành quả.
[[Tập tin:Australian infantry small box respirators Ypres 1917.jpg|nhỏ|phải|200px|Lính Úc trên mặt trận phía tây - [[Ypres]] 1917, họ đeo mặt nạ chống hơi ngạt]]
* '''Mặt trận phía Tây''': Liên quân Anh, Pháp đã nắm quyền chủ động chiến trường, trong năm [[1917]] tại mặt trận này chỉ có họ tấn công nhưng không thể chọc thủng nổi tuyến phòng thủ rắn chắc của quân Đức. Các cuộc tấn công tại Verdun, Ypres, [[Cambrai]] với sử dụng ồ ạt xe tăng đều thất bại. Đặc biệt từ [[9 tháng 4]] đến [[5 tháng 5]] năm này quân đội Pháp mở [[chiến dịch Nivelle]] (theo tên của Tổng tư lệnh quân đội Pháp [[Robert Georges Nivelle]] – người soạn thảo kế hoạch) với số lượng áp đảo gấp 2 lần quân Đức, kết quả: với số thương vong 50 vạn và đã thất bại và ngày nay trận này được gọi là "lò mổ của Nivelle". Đến cuối năm [[1917]] phòng tuyến Đức tại mặt trận phía Tây vẫn chưa thể phá vỡ nổi.
 
==== Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế ====
Dòng 368:
 
==== Phe Trung tâm đầu hàng ====
Bắt đầu từ cuối [[Tháng chín|tháng 9 năm ]]/[[1918]], phe Trung tâm nhanh chóng đầu hàng: đầu tiên là Bulgaria ([[29 tháng 9|29/9]]), Đế quốc Ottoman ([[30 tháng 10|30/10]]), Đế2 quốc Ottoman đầunước hàngÁo, Hungary ([[4 tháng 11|4/11]] hai nước Áo, Hungary) đầu hàng riêng biệt do Đế quốc Áo - Hung của [[Họ Habsburg|Vương triều Habsburg]] đã sụp đổ.
 
Vào ngày [[8 tháng 11|8/11]] năm /[[1918]], phái đoàn Đức đến toa tàu hoả riêng của Thống chế [[Ferdinand Foch]] tại cánh rừng Compiegne (Pháp). Khi Foch hỏi họ đến để làm gì, họ nói với ông ta rằng họ muốn nghe những lời thỉnh cầu ngừng bắn của phe Entente. Foch trả lời rằng ông ta không hề có yêu cầu ngừng bắn gì cả. Nhưng rồi, Matthias Erzberger đã buộc Foch phải đọc các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn. Vào ngày [[11 tháng 11|11/11]] năm /[[1918]], cũng chính tại toa tàu hỏa cá nhân của Foch, ngừng bắn được ký kết giữa hai bên.<ref>Leonard V. Smith, Stéphane Audoin-Rouzeau, Annette Becker, ''France and the Great War, 1914-1918'', trang 157</ref>
 
Ngày [[28 tháng 6|28/6]] năm /[[1919]] các nước thắng trận đã ký hiệp định hoà bình với Đức là [[Hòa ước Versailles|Hiệp định Versailles]] với các hạn chế ngặt nghèo cho sự phát triển sau chiến tranh của Đức (phải đến tháng[[Tháng 10 năm 2010|tháng 10/2010]] nước Đức mới hoàn thành xong khoản chiến phí nặng nề cho cuộc chiến này.). Và các hiệp định hoà bình cũng được ký kết giữa phe thắng trận với từng quốc gia thua trận là Áo, Hungary và Bulgaria. Đến năm [[1920]], phe Entente ký kết [[Hòa ước Sèvres]] với Sultan [[Mehmed VI]] theo đó Đế quốc Ottoman phải chịu vô cùng thiệt thòi.<ref>David W. Del Testa, Florence Lemoine, John Strickland, ''Government leaders, military rulers, and political activists'', trang 12</ref> Đây là một1 đòn giáng nặng nề vào Đế quốc Ottoman.<ref name="Tucker779">Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: encyclopedia'', Tập 1, trang 779</ref> Chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc.
 
== Đặc điểm chiến tranh trong thế chiến thứ nhất ==
Dòng 403:
* '''[[Máy bay]]''': đây là cuộc chiến tranh có sự tham gia đông đảo đầu tiên của [[máy bay]], do máy bay đang ở giai đoạn đầu phát triển còn rất thô sơ, bay chậm và thấp, mang được ít vũ khí, nhưng nó đã thể hiện khả năng chiến đấu rất hiệu quả và sau này được các bên nhận thấy các tiềm năng phát triển rất lớn. Trong đại chiến máy bay làm các nhiệm vụ [[không chiến]] (đánh nhau với máy bay địch), [[tấn công mặt đất]], [[trinh sát]], [[liên lạc]].
 
[[Tập tin:U 16.jpg|nhỏ|phải|300px|[[Tàu ngầm U16]] của Đức]]
* '''[[Tàu ngầm]]''': đây là vũ khí có hiệu quả nhất của Thế chiến I. Với [[tàu ngầm]] thì một hạm đội yếu có thể chống lại một hạm đội mạnh một cách hiệu quả. Một sự đầu tư nhỏ hơn (vào tàu ngầm) mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều khi xây dựng các hạm tàu mặt nước lớn. Điều đó giải thích tại sao [[Hải quân Đức]] dồn sức xây dựng lực lượng tàu ngầm [[U-boat]] của mình trong cả Thế chiến I và Thế chiến II. Thời gian này tàu ngầm còn rất thô sơ hoạt động nổi là chủ yếu, chỉ lặn xuống khi gặp tàu chiến đối phương và vũ khí ngư lôi mang theo cũng không nhiều, độ chính xác kém, thường tàu ngầm chỉ dùng ngư lôi để bắn tàu chiến đối phương khi đang lặn, còn đối với tàu vận tải thì nó nổi lên dùng pháo để bắn chìm. Với sự nguy hiểm của tàu ngầm đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa phá giao thông và bảo vệ giao thông trên biển cũng như giữa tàu ngầm và [[tàu săn ngầm]] với các [[thiết bị thuỷ âm phát hiện tàu ngầm]]. Trong thế chiến này lực lượng tàu ngầm của Đức đã đánh chìm một lượng lớn tải trọng tàu vận tải của Anh và làm kinh tế Anh lao đao, nhưng đồng thời nó cũng bị thiệt hại rất nặng nề.
 
[[Tập tin:Canadian tank and soldiers Vimy 1917.jpg|nhỏ|phải|300px|Xe tăng đi trước, bộ binh Canada theo sau, mặt trận Vimy [[1917]]]]
* '''[[Xe tăng]]''': đây là vũ khí ra đời trong thế chiến để khắc phục sự mất cân đối giữa tấn công và phòng ngự tuy [[xe tăng]] còn rất thô sơ thiếu độ tin cậy nhưng đã chứng minh được tiềm năng phát triển của mình và các bên đua nhau chế tạo xe tăng. Từ trận đầu tham chiến vào tháng 9 năm 1916 tại [[trận Somme (1916)|trận Sông Somme]] đến năm 1917 phía Entente có [[trận Cambrai]] đã huy động hơn 400 xe tăng để tấn công. Tuy nhiên xe tăng trong thế chiến I vì các tính năng còn yếu kém của mình mới chỉ được sử dụng như phương tiện yểm trợ bộ binh để đánh chiến tuyến của địch, chỉ đến [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] xe tăng mới phát huy hết tính năng tấn công cơ động thọc sâu của nó.
 
Dòng 414:
* Chiến tranh thế giới thứ nhất để lại rất nhiều hậu quả trước mắt và lâu dài. Cuộc chiến làm hơn mười triệu người chết và hàng chục triệu người khác bị tàn phế, các thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh lên tới khoảng 85 tỉ đôla. Ngoài sức mạnh tàn phá nhân mạng, kinh tế, vật chất, nó còn gây hãi hùng lâu dài về tâm lý cho cả [[châu Âu]] gây ra một thế hệ bị mất mát của châu Âu. Chính cuộc chiến này làm cho châu Âu tụt hậu và mất đi vai trò lãnh đạo văn minh nhân loại mà nó đã đảm đương trong hơn 300 năm qua và dần dần vai trò đó chuyển sang bên kia đại dương cho Hoa Kỳ.
[[Tập tin:German stormtroops training Sedan May 1917 3.jpg|nhỏ|trái|300px|Lính xung kích [[Sturmtruppen]] (Lực lượng Bão tố) của Đức tham chiến ở mặt trận phía Tây năm 1917]]
* Chiến tranh gây ra sự thay đổi rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến dẫn đến sự sụp đổ của bốn4 đế quốc Nga ([[1917]]), Đức ([[1918]]), Áo - Hung ([[1918]]), Ottoman ([[1923]]) với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị suy đổ trong đó hai cường quốc Áo - Hung và [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]] bị phân rã và mất hẳn vai trò cường quốc. Hai đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc nước lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù để dẫn đến một thế chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân chia mang tính chủ quan, quan liêu của các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn lộn xộn gây mất ổn định thế giới sau này.
* Chiến tranh này cho thấy rõ mâu thuẫn ghê gớm của [[hệ thống thuộc địa]] một nguyên nhân của đại chiến thế giới, tuy rằng sau chiến tranh nó còn tiếp tục tồn tại theo quán tính nhưng sau Thế chiến II, nó bị tất cả các nước, cả thuộc địa và cả một số chủ thuộc địa cùng tìm cách phá bỏ.
* Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng ngay lập tức đem lại những thay đổi về hệ thống chính trị tại các nước châu Âu. Tại Đức, nền quân chủ bị lật đổ, [[Cộng hòa Weimar]] ra đời. Tuy nhiên nền cộng hòa này cũng sớm đối mặt liên tục với những khó khăn chồng chất về kinh tế và xã hội, và tồn tại được 15 năm trước khi [[Adolf Hitler]] lên nắm quyền. Một trong những ảnh hưởng lâu dài nhất của Chiến tranh thế giới thứ nhất là sự ra đời của Liên Bang Xô Viết. Chiến tranh đã làm cho người dân Nga lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn. Hoàn cảnh này đã đẩy Nga vào cuộc Cách mạng tháng Mười với sự thắng lợi của [[chủ nghĩa cộng sản]]. Điều đó khiến cho các nước phương Tây vô cùng lo sợ và đề phòng sự lan rộng của [[chủ nghĩa cộng sản]], làm nảy sinh những mối nghi ngờ liên tục lẫn nhau giữa các nước này và [[Liên Xô]] gần như suốt cả [[thế kỷ XX]]. Thế chiến I kết thúc cũng là sự mở màn cho thế lực [[chủ nghĩa phát xít|phát xít]] lên ngôi tại nhiều nước trong bối cảnh xã hội bất ổn như tại Ý và Đức. Như vậy châu Âu sau cuộc chiến đã có sự chia rẽ rõ rệt về mặt [[chính trị]] giữa các thế lực cộng sản, phát xít và phương Tây, tạo bệ phóng cho một cuộc thế chiến mới.