Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 69:
 
Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi:
[[Tập tin:Flag_of_the_Qing_Dynasty_(1889-1912).svg|nhỏ|Cờ nhà Thanh, 1889-1912]]
[[Tập tin:L'Empire Chinois et du Japon (1833).jpg|nhỏ|trái|250px|''Carte de l'Empire chinois et du Japon, 1833'', Conrad Malte-Brun, 1837.]]
* Trước tiên, nhà Thanh phải đối mặt với khó khăn giống như những triều đại trước: [[giai cấp địa chủ]] không ngừng gia tăng thôn tính ruộng đất và bóc lột, khiến cho phần lớn nông dân tự canh phá sản, mất đi ruộng đất, trở thành tá điền hoặc lưu dân, bị buộc phải chấp nhận những điều kiện hà khắc, chấp nhận mức tô càng nặng nề hơn trước. Bởi thế, tình trạng bần cùng hoá giai cấp nông dân trở nên phổ biến, đẩy họ vào hoàn cảnh đói rét vô cùng bi thảm. Thời Càn Long, tình trạng địa chủ thôn tính ruộng đất đã cực kỳ nghiêm trọng, ''“trong 10 người thì 1-2 kẻ sở hữu đất đai, 3-4 người không có ruộng để cày, còn tá điền thì chiếm đến 4-5 người”''. Một số lượng lớn nông dân bị ép phải rời bỏ quê hương, trở thành lưu dân, lưu lạc tha hương. Chỉ riêng thành Bắc Kinh đã có 10 vạn ăn mày. Triều đình nhà Thanh đối với vấn đề này không một kế sách khả thi, số lượng dân đói, dân lưu lạc ngày càng tăng, mâu thuẫn giai cấp xã hội ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ kinh tế vì thế dẫn tới đấu tranh chính trị, cung cấp điều kiện xã hội ngày càng chín muồi cho các cuộc khởi nghĩa nông dân. Các tổ chức phản kháng như [[Bạch Liên giáo]], [[Thiên Địa hội]], Niệm đảng, Bái Thượng Đế giáo... đã thừa cơ mở rộng lực lượng, tổ chức khuyên răn dẫn dắt dân đói, dân lưu lạc tham gia đấu tranh phản Thanh nhằm tìm con đường sống.
* Sau 150 năm hòa bình, nhà Thanh gặp vấn nạn [[bùng nổ dân số]]: Thời kì đầu nhà Thanh, do chiến tranh khiến dân số sụt giảm nhiều, triều đình tiến hành chính sách khuyến khích sinh sản, từ ''“tư sinh nhân đinh, vĩnh bất gia phú”'' thời [[Khang Hy]] tới ''“than đinh nhân mẫu”'' thời [[Ung Chính]] đều xoá bỏ thuế đầu người, cổ vũ khuyến khích nhân dân sinh đẻ. Xã hội ổn định, không có chiến tranh, kinh tế từng bước phát triển đã cung cấp điều kiện thuận lợi cho việc tăng sức sinh sản. Vậy là dân số tăng lên nhanh chóng, trong vòng 100 năm từ năm Càn Long thứ 6 (1741) tới năm Đạo Quang thứ 20 (1840), dân số từ 140 triệu tăng vọt lên tới 410 triệu, tăng gần 3 lần, hiện tượng này trước đó chưa từng xảy ra. Nhà Thanh là xã hội phong kiến nông nghiệp lấy [[nông nghiệp]] làm nền tảng quốc gia, việc sản xuất của cải vật chất cơ bản dựa vào nông nghiệp. Nhưng diện tích đất đai canh tác thì không thể tăng thêm, nên bình quân đất canh tác tính trên đầu người ngày càng giảm. Tới giữa thời [[Càn Long]], bình quân đất canh tác còn được 4,25 mẫu/người, vẫn đủ để người nông dân nuôi sống gia đình. Đến giữa những năm [[Gia Khánh]] - [[Đạo Quang]], bình quân đất canh tác đã giảm xuống còn 2,19 mẫu, người nông dân đã vô cùng khốn quẫn, khó duy trì nổi sinh kế của gia đình, giá lương thực cao vọt, giá mỗi thạch gạo chưa tới 1.000 quan tiền thời Khang Hy nay lên tới 3.000 quan tiền. Đến lúc Hàm Phong lên ngôi (năm 1851), bình quân đất canh tác tính trên đầu người chỉ còn 1,78 mẫu, nông dân không có đất canh tác phải lưu lạc đầy rẫy, gia nhập giang hồ cướp của.
Hàng 80 ⟶ 78:
Cuộc khởi nghĩa [[Thái Bình Thiên Quốc|Thái bình thiên quốc]] vào giữa thế kỷ 19 là kết quả của hàng loạt mâu thuẫn xã hội đã tích tụ suốt 150 năm, nay tới lúc phải bùng nổ. Đây là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động.
 
[[Tập tin:Flag_of_the_Qing_Dynasty_(1889-1912).svg|nhỏ|Cờ nhà Thanh, 1889-1912]]
[[Tập tin:L'Empire Chinois et du Japon (1833).jpg|nhỏ|trái|250px|''Carte de l'Empire chinois et du Japon, 1833'', Conrad Malte-Brun, 1837.]]
Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, [[Đế chế Trung Quốc]] là cường quốc bá chủ châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "[[thiên hạ]]". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình.