Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý thuyết tập hợp ngây thơ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Lý thuyết tập hợp Naïve là bất kỳ lý thuyết nào trong số các lý thuyết tập hợp được sử dụng trong cuộc thảo luận về nền tảng của toán học.<ref>Jeff KhôngMiller giốngviết nhưrằng các'' lý thuyết tập hợp tiênngây đề,thơ được'' xác(trái địnhngược bằng logic chính thức,với lý thuyết tập hợp ngâytiên thơđề) đôi khi được địnhsử nghĩadụng khôngvào chínhnhững thức,năm 1940 và trở thành bằngmột ngônthuật ngữ tựđược thành lập vào những năm nhiên1950. Nó xuất tảhiện cáctrong khíabài cạnhphê bình của cácHermann bộWeyl toánvề họcP. quenA. thuộcSchilpp trong(Ed). (1946). Triết lý của Bertrand Russell '' Hàng tháng toán học rờiMỹ rạc'', 53 (4), dụtrang biểu& đồnbsp; Venn210 trong bài đánh giá của Laszlo Kalmar. (1946). Nghịchluậncủa Kleene và Rosser. '' Tạp chí Logic tượng trưng về'', đại11 số(4), Booleantrang. của& chúngNbsp; 136. (JSTOR),. [http://jeff560.tripod.com/s.html] đủThuật chongữ việcnày sửsau dụngđó hàngđã ngàyđược cácphổ kháibiến niệmtrong một cuốn sách của [[Paul Halmos]] (1960). '' Lý thuyết tập hợp trongngây toánthơ học đương đại''. </ref>
. Không giống như các lý thuyết tập hợp tiên đề, được xác định bằng logic chính thức, lý thuyết tập hợp ngây thơ được định nghĩa không chính thức, bằng ngôn ngữ tự nhiên. Nó mô tả các khía cạnh của các bộ toán học quen thuộc trong toán học rời rạc (ví dụ biểu đồ Venn và lý luận tượng trưng về đại số Boolean của chúng), và đủ cho việc sử dụng hàng ngày các khái niệm lý thuyết tập hợp trong toán học đương đại.<ref>{{citation| last = Mac Lane | first = Saunders
 | contribution = đại số phân loại và nền tảng lý thuyết tập hợp
 | mr = 0282791
 | pages = 231-240
 | pubisher = Amer. Môn Toán. Sóc., Providence, R.I.
 | title = Lý thuyết tập hợp phương pháp (Proc. Sympose. Pure Math., Tập XIII, Phần I, Univ. California, Los Angeles, Calif., 1967)
 | year = 1971}}. "Các nhà toán học làm việc thường nghĩ theo lý thuyết tập hợp ngây thơ (có thể ít nhiều tương đương với ZF) ... một yêu cầu thực tế [của bất kỳ hệ thống cơ sở mới nào] có thể là hệ thống này có thể được sử dụng bởi" các nhà toán học " tinh vi trong nghiên cứu cơ bản "([https://books.google.com.vn/books?id=TVi2AwAAQBAJ&pg=PA236 p. & nbsp; 236]).</ref>
 
Bộ có tầm quan trọng lớn trong toán học; trong các phương pháp điều trị chính thức hiện đại, hầu hết các đối tượng toán học (số, quan hệ, hàm, v.v.) được định nghĩa theo các tập hợp. Lý thuyết Naïve đặt ra đủ cho nhiều mục đích, đồng thời đóng vai trò là bước đệm hướng tới các phương pháp điều trị chính thức hơn.