Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 66:
 
Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi:
* Trước tiên, nhà Thanh phải đối mặt với khó khăn giống như những triều đại trước: [[giai cấp địa chủ]] không ngừng gia tăng thôn tính ruộng đất và bóc lột, khiến cho phần lớn nông dân tự canh phá sản, mất đi ruộng đất, trở thành tá điền hoặc lưu dân, bị buộc phải chấp nhận những điều kiện hà khắc, chấp nhận mức tô càng nặng nề hơn trước. Bởi thế, tình trạng bần cùng hoá giai cấp nông dân trở nên phổ biến, đẩy họ vào hoàn cảnh đói rét vô cùng bi thảm. Thời [[Càn Long]], tình trạng địa chủ thôn tính ruộng đất đã cực kỳ nghiêm trọng, ''“trong 10 người thì 1-2 kẻ sở hữu đất đai, 3-4 người không có ruộng để cày, còn tá điền thì chiếm đến 4-5 người”''. Một số lượng lớn nông dân bị ép phải rời bỏ quê hương, trở thành lưu dân, lưu lạc tha hương. Chỉ riêng thành Bắc Kinh đã có 10 vạn ăn mày. Triều đình nhà Thanh đối với vấn đề này không một kế sách khả thi, số lượng dân đói, dân lưu lạc ngày càng tăng, mâu thuẫn giai cấp xã hội ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ kinh tế vì thế dẫn tới đấu tranh chính trị, cung cấp điều kiện xã hội ngày càng chín muồi cho các cuộc khởi nghĩa nông dân. [[Tả Tông Đường]] đã đánh giá về tình hình kinh tế các tầng lớp ở nông thôn như sau: ''“Trong 10 người thì giàu có bất quá được 1, 2 kẻ, còn lại đều lao động bần khổ, hoặc làm giấy, hoặc trồng khoai thay lương, năm được mùa còn phải mua ngũ cốc tiếp hoang, năm mất mùa lấy đâu ra no đủ?”'' Các tổ chức phản kháng như [[Bạch Liên giáo]], [[Thiên Địa hội]], Niệm đảng, Bái Thượng Đế giáo... đã thừa cơ mở rộng lực lượng, tổ chức khuyên răn dẫn dắt dân đói, dân lưu lạc tham gia đấu tranh phản Thanh nhằm tìm con đường sống.
* Sau 150 năm hòa bình, nhà Thanh gặp vấn nạn [[bùng nổ dân số]]: Thời kì đầu nhà Thanh, do chiến tranh khiến dân số sụt giảm nhiều, triều đình tiến hành chính sách khuyến khích sinh sản, từ ''“tư sinh nhân đinh, vĩnh bất gia phú”'' thời [[Khang Hy]] tới ''“than đinh nhân mẫu”'' thời [[Ung Chính]] đều xoá bỏ thuế đầu người, cổ vũ khuyến khích nhân dân sinh đẻ. Xã hội ổn định, không có chiến tranh, kinh tế từng bước phát triển, việc du nhập các loại cây lương thực mới (ngô, khoai lang) đã cung cấp điều kiện thuận lợi cho việc tăng sức sinh sản. Vậy là dân số tăng lên nhanh chóng, trong vòng 100 năm từ năm Càn Long thứ 6 (1741) tới năm [[Đạo Quang]] thứ 20 (1840), dân số từ 140 triệu tăng vọt lên tới 410 triệu, tăng gần 3 lần, hiện tượng này trước đó chưa từng xảy ra. Nhà Thanh là xã hội phong kiến nông nghiệp lấy [[nông nghiệp]] làm nền tảng quốc gia, việc sản xuất của cải vật chất cơ bản dựa vào nông nghiệp. Nhưng diện tích đất đai canh tác thì không thể tăng thêm, nên bình quân đất canh tác tính trên đầu người ngày càng giảm. Tới giữa thời [[Càn Long]], bình quân đất canh tác còn được 4,25 mẫu/người, vẫn đủ để người nông dân nuôi sống gia đình. Đến giữa những năm [[Gia Khánh]] - [[Đạo Quang]], bình quân đất canh tác đã giảm xuống còn 2,19 mẫu, người nông dân đã vô cùng khốn quẫn, khó duy trì nổi sinh kế của gia đình, giá lương thực cao vọt, giá mỗi thạch gạo chưa tới 1.000 quan tiền thời Khang Hy nay lên tới 3.000 quan tiền. Đến lúc Hàm Phong lên ngôi (năm 1851), bình quân đất canh tác tính trên đầu người chỉ còn 1,78 mẫu, nông dân không có đất canh tác phải lưu lạc đầy rẫy, gia nhập giang hồ cướp của.
* Nhà Thanh từ giữa thời Càn Long chứng kiến sự tha hóa, hủ bại của đội ngũ quan lại: Đại học sĩ [[Hòa Thân]] chuyên quyền, công khai ăn hối lộ, bẻ cong luật pháp, mua quan bán tước nhưng lại được Càn Long dung túng. Trào lưu thanh chính nghiêm minh nơi quan trường chính trị thời [[Khang Hy]] – [[Ung Chính]] đã thay đổi, sa ngã xuống vũng bùn hủ bại tham lam. Quan lại ''“lấy việc ăn uống mỹ sắc làm tri kỷ, liêm sỉ cốt ở danh tiếng, cướp lợi lộc là hiền tài, nghiên cứu nghĩa lý là mê hoặc”'' Hoàng đế [[Gia Khánh]] sửa sai bằng cách nghiêm trị Hòa Thân, vua [[Đạo Quang]] thì đề cao tiết kiệm, nhưng tệ nạn [[tham nhũng]] đã tích tụ bao năm qua đã không cách nào trừ bỏ được. Quan lại địa phương tự đặt ra luật lệ, cướp đoạt tại chỗ, việc lại trị ngày càng sa sút. [[Chương Học Thành]] chỉ ra, thời Gia Khánh – Đạo Quang, khoản tiền mà quan lại địa phương ăn hối lộ, gấp mười lần, thậm chí gấp trăm lần trước kia, ''“nhà cửa, đồ dùng xa hoa hơn chư hầu thời xưa rất nhiều, kẻ trên người dưới tranh nhau lợi, kẻ giàu sang làm điều ác mà chẳng bị truy cứu, người nghèo khó có oan mà không nói được”''.
* Thời [[Đạo Quang]] còn phải đối mặt với sự xâm lấn của các cường quốc thực dân phương Tây. Trước tiên là việc nhập lậu [[thuốc phiện]] lan tràn cả nước. Tiền bạc chảy ra ngoài, nguồn bạc thiếu thốn, nạn thiếu tài chính lộ rõ. Theo thống kê, trong khoảng thời gian trước chiến tranh nha phiến 10 năm, số nha phiến nhập lậu lên tới 23,8 triệu thùng, trung bình mỗi năm 2,4 triệu thùng, trung bình mỗi năm Trung Quốc tiêu tốn 16,3 triệu lạng bạc cho thuốc phiện. Sau [[chiến tranh nha phiến]] năm 1841, nhà Thanh phải bồi thường chiến phí, lại phải chấp nhận cho phương tây tự do buôn thuốc phiện, tình hình tài chính của Thanh triều càng thêm tồi tệ. Theo tấu trình của [[Trác Bỉnh Điềm]], từ năm 1840 đến năm 1849, các khoản chi ngoại ngạch ''“đã hơn 70 triệu lạng”''. Tổng cộng trong giai đoạn 1830 – 1848, trong khoảng thời gian 19 năm, tổng số bạc chảy ra ngoài đã đạt tới hơn 120.200.000 lạng, nhiều hơn 3 lần thu nhập tài chính trong một năm của triều đình (hơn 40 triệu lạng). Quốc khố cạn kiệt, khi vua Đạo Quang qua đời, ngân khố của bộ Hộ chỉ còn 9.000.000 lạng bạc. Không chỉ vậy, thuốc phiện còn đầu độc nhân dân Trung Quốc, khiến sức khỏe người dân sa sút, đầu óc trở nên mê muội, nhiều gia đình tan cửa nát nhà vì nghiện thuốc phiện, đó là thiệt hại không thể đo đếm bằng tiền.