Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhân Thọ Hoàng thái hậu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 29:
Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu sinh ngày [[19 tháng 3]] (âm lịch), xuất thân từ dòng họ [[Ô Nhã thị]] (乌雅氏), lại có thuyết gọi '''Ngô Nhã thị''' (吴雅氏), thuộc [[Mãn Châu]] [[Bát Kỳ|Chính Hoàng kỳ]]. Tuy nhiên, gia tộc bà vốn là [[Bao y]] thuộc Chính Hoàng kỳ, có thuyết là Tương Lam kỳ.
 
Tằng tổ phụ [[Ngạch Bách Căn]] (额柏根), thế cư [[Cáp Đạt]], lại có chỗ nói thế cư [[Diệp Hách]], buổi đầu quốc sơ thì quy thuận. Tổ phụ [[Ngạch Tham]] (额参), là con trưởng của Ngạch Bách Căn, buổi đầu phò tá [[Thanh Thái Tông]] Hoàng Thái Cực, làm chức ''Thiện Phòng Tổng lĩnh'' (膳房总管)<ref>八旗通志?正黄旗满洲世职大臣卷: 额参,满洲正黄旗人,姓吴雅氏,世居叶赫地方,初任布达衣大(即膳房总管),累擢至内大臣(正一品)。</ref>, này vốn là ''Nội vụ phủ bao y'' (內務府包衣), Thượng tam kỳ Bao y khi đó được gọi như vậy. Về sau ông lập được công danh, chinh chiến [[Triều Tiên]], lại đến [[Sơn Đông]], [[Tế Nam]], công lao hiển hách nên dần thăng ''Nhất đẳng Đô úy'', kiêm nhậm ''Tá lĩnh'', thụ [[Nam tước]] tước vị. Phụ thân của bà là [[Ô Nhã Uy Vũ]] (乌雅威武), lại có tên khác ''Ngụy Vũ'' (魏武), là trưởng tử của Ngạch Tham, đương thời nhậm chức vụ [Hộ quân Tham lĩnh; 護軍參領], hàm ''Chính tam phẩm''. Em trai bà tên là [[Bác Khải]] (博启) giữ chức ''Tán trật đại thần'' (散秩大臣), hàm ''Tòng nhị phẩm.''
 
Trong nhà bà còn có người chú [[Nhạc Sắc]] (岳色), nguyên nhậm Tư Hộ quan, sau đặc ban chức Kỵ đô úy. Ngoài ra, còn có [[Tát Mục Cáp Tôn Đạc Bật|Đạc Bật]] (铎弼), là đường huynh đệ của Uy Vũ, đương thời nhậm Phó đô Ngự sử trong [[Đô Sát viện]], Nội vụ phủ Tổng quản kiêm Tá lĩnh. Em gái gả cho [[A Linh A]], con trai của Át Tất Long và là em của [[Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu|Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu]] và [[Ôn Hi Quý phi]]. Cháu trai (con của em gái), ngay từ dưới thời Khang Hi đã làm đến hàm Chính nhất phẩm Lãnh Thị vệ Nội đại thần, [[Hình bộ]] [[Thượng thư]], tước ''Nhị đẳng công''. Về sau, khi bà hiển quý, trở thành Hoàng thái hậu, cả gia đình cũng vinh hiển, cả ông cụ, ông nội và cha bà được [[Ung Chính Đế]] phong tước phong ''Nhất đẳng công'' (一等公).
 
Ung Chính Đế vì khuếch trương dòng dõi của Thái hậu, cũng là để tự nâng bản thân, còn tự xưng dòng họ của bà là ''Bổn triều cựu tộc, sang thế danh gia'' (Nguyên văn: 本朝旧族, 创世名家), lại ra chỉ dụ tán thưởng:''"Ngạch Bách Căn, hệ triều đại cũ tộc, gây dựng sự nghiệp danh gia. Ở Thái Tổ Cao Hoàng đế khi, dưỡng dục cấm đình, coi cùng con cháu. Ngạch Tham lịch sự tam triêu, quân công mậu. Ngụy Vũ thiên rất tuấn kiệt, khải sau thừa trước, hậu đức chung linh, đốc sinh thánh mẫu, nghi thêm tuấn trật, lấy hiệp di chương. Đem Ngạch Bách Căn, Ngạch Tham, Ngụy Vũ, đều truy nhất đẳng công. Nhất đẳng công, thừa kế võng thế"''<ref>Nguyên văn:“额柏根,系本朝旧族,创业名家。在太祖高皇帝时,抚育禁庭,视同子侄。额参历事三朝,军功懋著。魏武天挺俊杰,启后承先,厚德钟灵,笃生圣母,宜加峻秩,以协彝章。将额柏根、额参、魏武,俱追一等公。一等公,世袭罔替。”</ref>. Ngoài ra bà còn có anh em trai tên [[Bác Khải]] (博启), sau kế thừa tước Nhất đẳng công. Có tổ phụ vốn là Bao y, nên Ô Nhã thị tính ra phải vào [[Nội vụ phủ]] làm việc khi còn nhỏ. Như vậy có thể thấy, bà xuất thân cơ bản không cao, nếu không muốn nói là cực kì thấp kém. Vì thế, Ung Chính Đế luôn tích cực truy phong mẫu gia, vì đối với Ung Chính Đế mà nói, mẫu tộc thấp kém là một nỗi khổ, xuất phát từ yêu cầu tuyên truyền chính trị, Ung Chính Đế cần thiết thần thoại hóa xuất thân của chính mình.
 
== Đại Thanh tần phi ==