Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 328:
[[Tập tin:Arms of Ming army3.jpg|280px|thumb|Lựu đạn ném tay của quân Minh]]
 
Những năm cuối nhà Minh, quan lại tham nhũng và bất tài đã làm suy yếu hệ thống quân sự “Vệ sở” của nhà Minh. Vào đầu thế kỉ XVII, quân đội nhà Minh đã trở nên thiếu đào tạo và kỉ luật, sức mạnh của họ ngày một giảm sút. Các sĩ quan tiếp tục ghi tên những người đã chết hoặc đã rời quân ngũ vào trong danh sách ("lính ma") để tham nhũng tiền lương. Trong những năm 1560, chỉ có 3 vạn lính ở Tuyên Phủ chống lại cuộc xâm lược của Mông Cổ, trong khi con số trên giấy là 12 vạn. [[Martin de Rada]] đã đưa ra một danh sách quân đội nhà Minh vào cuối thế kỉ XVI, trên giấy tờ họ có tổng cộng 4.178.500 bộ binh và 780.000 con ngựa, rõ ràng là đã phóng đại quá xa thực tế, cho thấy nạn khai gian quân số đã rất đáng báo động.
 
Thời [[Gia Tĩnh]], có vị quan đã miêu tả vệ sở như là ''“nguồn gốc của nhiều rắc rối. Họ nổi loạn và sẵn sàng tạo phản bất cứ khi nào triều đình chậm trả tiền cho họ… bất kì khi nào có chiến tranh, do lo sợ quân đội bị tổn thất, lính đánh thuê và dân binh được sử dụng để chống lại những bọn giặc cướp. Nói cách khác, dân thường được sử dụng để bảo vệ những người lính"''. Những người lính đánh thuê được tuyển mộ chủ yếu từ dân lang thang, trộm cướp. Do được tuyển mộ từ những vùng khác nhau, những đạo quân mang tính địa phương rất lớn. Những người đến từ Hồ Nam dễ kiểm soát nhưng lại hèn nhát. Trái lại, Mao Hồ Lô binh (毛葫蘆兵), những cựu thợ mỏ thì dũng cảm nhưng lại vô kỷ luật. Những người lính Tứ Xuyên vốn là những kẻ cướp, dễ bị thu hút bởi những đồ đạc bị kẻ thù bỏ lại. Sự đa dạng của các đơn vị khiến cho việc kiểm soát của trung ương rất khó khăn. Năm 1620, một báo cáo về quân đội tại [[Bắc Kinh]] mô tả: ''“Không thể dùng chúng để bảo vể kinh đô nếu chiến tranh nổ ra. Người ta nói triều đình không dám cải tổ chúng vì sợ chúng sẽ làm loạn. Họ cũng không dám đào tạo vì điều này cũng sẽ dẫn đến thảm họa tương tự"''.
 
Vào thế kỷ thứ XV, nhà Minh có đến 25 địa điểm đồn trú (vệ sở) nhưng đến thế kỷ thứ XVI thì về phẩm lẫn lượng càng ngày càng kém dần, nhiều đơn vị chỉ còn là những "đội quân ma" chỉ hiện hữu trên giấy tờ. Nhà Minh lúc này phải trông cậy vào những phiên trấn (frontier feudalism). Những vị tướng địa phương được cha truyền con nối, trên danh nghĩa họ là quan chức triều đình nhưng thực tế quân đội là thân binh riêng của họ. Từ đời [[Minh Thần Tông]], hầu hết các vệ sở được coi như những đoàn lính đánh thuê (mercenaries). Những người lính đánh thuê được tuyển mộ chủ yếu từ dân lang thang, trộm cướp. Do được tuyển mộ từ những vùng khác nhau, những đạo quân mang tính địa phương rất lớn. Những người đến từ Hồ Nam dễ kiểm soát nhưng lại hèn nhát. Trái lại, Mao Hồ Lô binh (毛葫蘆兵), những cựu thợ mỏ thì dũng cảm nhưng lại vô kỷ luật. Những người lính Tứ Xuyên vốn là những kẻ cướp, dễ bị thu hút bởi những đồ đạc bị kẻ thù bỏ lại. Sự đa dạng của các đơn vị khiến cho việc kiểm soát của trung ương rất khó khăn.
 
Ngay cả đến quân đội trấn đóng tại kinh thành – vốn dĩ là thành phần tinh nhuệ nhất – cũng chẳng hơn gì. Trên giấy tờ thì Kinh đô doanh (京營) có khoảng 120.000 quân nhưng một nửa số đó là "lính ma", còn lại là thành phần lưu manh, không thể nào tin cậy để bảo vệ kinh thành được một khi có chiến tranh. Năm 1620, một báo cáo về quân đội tại [[Bắc Kinh]] mô tả: ''“Không thể dùng chúng để bảo vể kinh đô nếu chiến tranh nổ ra. Người ta nói triều đình không dám cải tổ chúng vì sợ chúng sẽ làm loạn. Họ cũng không dám đào tạo vì điều này cũng sẽ dẫn đến thảm họa tương tự"''.
 
Theo truyền thống, thủ cấp của kẻ thù được mang ra treo thưởng để tạo động lực cho binh lính chiến đấu, nhưng vào thể kỷ 17, việc này đã bị lạm dụng. Các tù nhân chiến tranh và thường dân vô tội thường bị binh lính tàn sát để lấy thủ cấp làm bằng chứng cho những chiến tích hư cấu. Điều này đã làm cho số lượng "kẻ thù" bị tiêu diệt tăng vọt so với sự thực, khiến triều đình đánh giá sai về tình hình thực tế. Năm 1640, hoàng đế [[Sùng Trinh]] đã cố gắng hủy bỏ hệ thống này nhưng đã quá muộn.
 
Với một đội quân kém sức chiến đấu, nhà Minh đã không thể đối phó nổi với cuộc khởi nghĩa nông dân của [[Lý Tự Thành]]. Năm 1644, Bắc Kinh rơi vào tay quân khởi nghĩa [[Lý Tự Thành]], đâyvua Sùng Trinh treo cổ tự vẫn. Đây là một tổn thất nặng nề với nhà Minh.

Tuy nhiên, nhà Minh không sụp đổ ngay lập tức. Một số người trong hoàng tộc đã được chọn để kế vị, kinh đô mới được đặt tại Nam Kinh. Triều đình [[Nam Minh]] ra đời. Nhưng sự yếu đuối của chính quyền mới là rõ ràng, nội bộ Nam Minh bị chia rẽ vì những tranh chấp giữa các thành viên hoàng tộc và các tướng lĩnh. Số quân Minh còn lại vẫn còn hàng trăm ngàn, nhưng đã không còn sức chiến đấu. Không có ngân sách và lương thực để nuôi quân đội, những đội quân này nhanh chóng đầu hàng hoặc đào ngũ trở thành những toán cướp. Quân đội Nam Minh đã nhanh chóng bị quân Mãn Thanh đánh tan tác, nhà Nam Minh sụp đổ.
 
== Nhân khẩu==