Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 161:
 
Tới cuối đời Minh, lực lượng của nhà Thanh vào khoảng 120.000 binh sĩ (278 ngưu lục), cộng thêm 24.000 (120 ngưu lục) binh sĩ Mông Cổ và 33.000 (165 ngưu lục) binh sĩ người Hán.
 
Trước khi chiếm được trung nguyên, quân Mãn Châu đã khai thác tối đa sức mạnh kỵ binh vì họ quen thuộc với việc cưỡi ngựa bắn cung, trong khi người Hán chỉ cố gắng phát huy phương pháp giữ thành bằng tường cao hào sâu, dùng thần công có thể bắn xa để cố thủ. Thế nhưng kể từ năm 1629, khi người Mãn Châu chiếm được một số thành phố thì tình hình bắt đầu chuyển biến. Một trong bốn thị trấn họ mới chiếm được là Vĩnh Bình (永平) là nơi có một đội thợ quen với phương pháp đúc súng của người Bồ Ðào Nha, chỉ hai năm sau họ đã đúc được khoảng 40 khẩu thần công theo mẫu của người Âu châu cộng thêm một số pháo thủ do họ huấn luyện.
 
Quân Thanh đem vũ khí mới thử nghiệm tại Ðại Lăng Hà (大凌河) là một địa điểm quan trọng nối liền biên cảnh với đại quân nhà Minh đóng ở phía nam trường thành. Quân Thanh do Hoàng Thái Cực (皇太極) chỉ huy đã chiếm được Ðại Lăng Hà, lấy được vô số khí giới. Mười năm sau, khi chiếm được Tùng San (松山) và Cẩm Châu (錦州), quân Thanh lại thu được 2.000 khẩu pháo lớn nhỏ nhưng quan trọng hơn nữa họ đã dụ hàng được hai danh tướng nhà Minh là [[Hồng Thừa Trù]] (洪承疇) và [[Tổ Ðại Thọ]] (祖大壽). Tổ Ðại Thọ lại chính là cậu của tổng binh Ngô Tam Quế, người cầm đại quân trấn thủ Sơn Hải Quan, cửa ải huyết mạch giữa Trung Hoa và Mãn Châu.
 
==== Hòa bình và trì trệ ====