Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thục Gia Hoàng quý phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 67:
Năm Càn Long thứ 20 ([[1755]]), khi đứa con trai thứ 4 của bà được 4 tuổi, vào ngày [[15 tháng 11]] (âm lịch), Gia Quý phi Kim thị lâm trọng bệnh và qua đời, hưởng niên 42 tuổi. Ngày [[16 tháng 11]] cùng năm, bà được đích thân [[Sùng Khánh Hoàng thái hậu]] truy phong thành [[Hoàng quý phi]]. Ngày [[17 tháng 11]], sách truy [[thụy hiệu]] là '''Thục Gia Hoàng quý phi''' (淑嘉皇貴妃)<ref>乾隆二十年十一月 ○嘉贵妃薨。谕曰、钦奉皇太后懿旨。嘉贵妃患病薨逝。著追封皇贵妃。钦此。一切丧仪。该衙门察例敬谨举行。丙戌。册谥嘉贵妃。为淑嘉皇贵妃。</ref>, sang [[tháng 12]] thì khiển quan tế cáo [[Thái miếu]] và [[Phụng Tiên điện]]<ref>皇朝文獻通考 (四庫全書本)/卷103: 乾隆二十年十二月丁巳以冊諡淑嘉皇貴妃遣官祭告太廟後殿奉先殿</ref>. Theo [[Hồng xưng thông dụng]] của [[Nội vụ phủ]], ''"Thục"'' có âm Mãn là 「Nemgiyen」, có nghĩa là ''"dịu dàng"'', ''"uyển thuận"''. Kim quan của bà tạm an ở [[Tĩnh An trang]].
 
Năm Càn Long thứ 22 ([[1757]]), ngày [[2 tháng 11]], kim quan của Thục Gia Hoàng quý phi được an táng vào địa cung của [[Dụ lăng]], [[Thanh Đông lăng]]. Bà là 1 trong 5 hậu phi được an táng ở Dụ lăng phi viên tẩm cùng Càn Long Đế, bên cạnh [[Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu]], [[Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu]], [[Tuệ Hiền Hoàng quý phi]] và [[Triết Mẫn Hoàng quý phi]]. Thần bài của bà được đặt ở Tây Noãn các trong [[Long Ân điện]] (隆恩殿), phía Tây bài vị của Tuệ Hiền Hoàng quý phi (ở giữa Noãn các), và phía Đông, cũng là đối diện chính là bài vị của Triết Mẫn Hoàng quý phi.
 
Vào đời [[Gia Khánh]], gia tộc của bà được thoát khỏi [[Bát kỳ|Bao y]] thân phận, chân chính trở thành [[Mãn Châu]] [[Bát kỳ|Chính Hoàng kỳ]], nhập Thượng Tam kỳ, đổi gọi thành '''Kim Giai thị'''<ref>李桓:《国朝耆献类征》(初编)卷九○《金简传》。在此需说明,朝鲜人李坤在《燕行记事》下中云:“金辉、金简方在侍郎,其叔母曾为皇帝后宫,年前身死,今方移宠辉简辈。”依此线索,查阅《清高宗实录》可知,乾隆三十九年金简任户部汉缺右侍郎,四十二年六月改满缺右侍郎,同年七月金辉署兵都满缺左侍郎。“为皇帝后宫”的叔母“年前身死”,当在乾隆四十一年。从“今方移宠辉简辈”,其“叔母”当为乾隆帝弘历的妃嫔。翻检《清史稿•后妃传》及《清皇室四谱•二后妃》等文献,在乾隆,乃至雍正、康熙三帝后妃中除了淑嘉皇贵妃外,未见另有金氏女子。“叔母”为后宫一事待考。</ref>. Đến năm Gia Khánh thứ 23, hoàng đế truyền chỉ chính thức sửa tên Kim Thị thành Kim Giai thị trong ngọc điệp hoàng gia, biểu thị ân sủng thâm hậu đối với gia tộc của bà. Từ đây gia tộc trở nên hưng thịnh, Kim Giản lần lượt nhậm [[Bát kỳ|Tương Hoàng kỳ]] Hán quân Đô thống, rồi Lại bộ Thượng thư. Con là [[Ôn Bố]] (缊布), sơ thụ Bái đường a, Lam Linh Thị vệ, [[Tổng binh]] trấn Thái Ninh, Nội vụ Phủ đại thần, Võ Anh điện Tổng đài quan, [[Bát kỳ|Tương Hồng kỳ]] Hán quân Phó đô thống, Công bộ Thị lang, [[Bát kỳ|Chính Hồng kỳ]] Mông Cổ Phó đô thống, cuối cùng là [[Thượng thư]] [[bộ Hộ]]. Cháu [[Thiện Ninh]] (善宁), tập nhậm Thế quản [[Tá lĩnh]], còn Kim Huy từng nhậm Tả Thị lang [[bộ Binh]]. Gia tộc từ khi liên hôn hoàng thất, dần dần phát đạt.