Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 107:
Sau khi [[điều ước Nam Kinh]] năm 1860, nhà Thanh ngày càng chịu nhiều khủng hoảng. [[Thuốc phiện]] nhập vào ồ ạt mà không được ngăn cấm, thứ nhì là lụa sa, vải nhập khẩu khiến vải nội địa không thể cạnh tranh nổi. Từ năm 1890, số lượng sa, vải nhập khẩu mỗi năm lên đến 1 vạn vạn lượng, so với 60 năm về trước gia tăng 80%. Tiền dùng để mua hàng đều lấy từ xuất khẩu lương thực, nhưng lương thực thường không đủ nên nạn đói xảy ra, vùng Hoa Bắc nghèo khổ lại càng nặng nề. Trà, tơ vốn là nguồn xuất khẩu lớn; từ năm 1880 bị Ấn Độ và Nhật sản xuất nhiều, trà bị cạnh tranh nên trước kia chiếm đến 54% lượng xuất khẩu lúc này bị giáng xuống chỉ còn 18%; riêng tơ cũng bị giảm nhiều.
 
Nạn đói kém do hạn hán, lụt lội ra rất nhiều tại phương bắc. Năm 1877-1878 thiên tai xảy ra tại các tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, số người chết vô số kể. Từ năm 1855, sông [[Hoàng Hà]] tại phía đông tỉnh Hà Nam bị vỡ; dòng sông trước kia chảy qua phía bắc tỉnh Giang Tô, đổi sang tỉnh Sơn Đông; sông mới hẹp nước chảy khó khăn, nên đê thường bị vỡ. Tháng 9/1887, vỡ đê tại [[Trịnh Châu]] [Hà Nam], nước chảy vào các sông Giả Lỗ, Hoài khiến vùng phía đông Hà Nam, phía bắc An Huy bị thiệt hại nặng. Tháng 1/1889, bắt đầu chặn dòng, hậu quả hơn 1 triệu người chết, tiêu tốn ngân khoản 10 triệu lượng. Cùng năm đó cho đến năm sau, tại tỉnh [[Sơn Đông]] lại có thêm hai lần vỡ đê. Từ năm 1892-1898, đê vỡ thường xuyên, nhà cửa trôi dạt, người và súc vật chết vô số; khu vực bị thiên tai riêng tỉnh Sơn Đông có đến 60 châu, huyện; tỉnh Trực Lệ đến 26 châu, huyện. Vào các năm 1888, 1890, 1892, 1893, 1896, sông Vĩnh Định liên tục bị vỡ đê, chỗ bị vỡ từ 10 trượng đến hơn 100 trượng; khu vực bị thiên tai tại tỉnh Trực Lệ lên đến 26 châu, huyện. Năm 1899, tại các tỉnh [[Trực Lệ]], [[Sơn Đông]], [[Sơn Tây]], cùng phía bắc Giang Tô bị hạn hán lâu, thực phẩm thiếu thốn, khiến người nghèo phải đem con đi bán.
 
Chính phủ nhà Thanh vơ vét cũng là nguyên nhân khiến nhân dân chịu thống khổ. Triều đình phải vơ vét do chi tiêu gia tăng, nguồn tài chính kiệt quệ. Tài chính kiệt quệ do bởi nhiều năm chiến loạn, cung đình tiêu xài nhiều, chẩn tế cho các thiên tai, nhu cầu bởi chính sách đổi mới, và quan trọng nhất là tiền bồi thường cho nước ngoài. Từ năm 1895 trở về trước, mỗi năm phải trả nợ và tiền lời khoảng 3-4 trăm vạn lượng, còn có thể gắng sức gánh vác được. Sau [[chiến tranh Giáp Ngọ]] (1894) tiền vay về chi phí chiến tranh khoảng 1.200 vạn lượng, tiền bồi thường cho Nhật khoảng 2.600 vạn lượng, tất cả đều phải vay, mỗi năm phải trả 2.300 vạn lượng. Do vậy phải khấu trừ tiền dưỡng liêm, tăng thuế ly kim, thuế ruộng; tăng các sắc thuế về gạo, trà, muối, đường, thuốc phiện, thuốc lá, rượu và quyên thu các thương gia, nhưng cũng không đủ. Năm 1898, phát hành Chiêu tín cổ phiếu, 10.000 vạn lượng, bằng mọi cách áp lực dân phải mua, nhưng chỉ thu được không quá 1000 vạn lượng. Căn cứ báo cáo của bộ Hộ mỗi năm tiền trả nợ ngoại quốc, tiền quân vụ, dương vụ [cải cách thuyền binh], tiền tiêu của trung ương và địa phương, tổng cộng gần 100 triệu lượng, nhưng thu nhập quốc khố chỉ có 80 triệu lượng, số tiền thiếu hụt khoảng 20 triệu lượng.
 
===Nghĩa hòa đoàn và Bát quốc liên quân ===