Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 142:
Trong cuộc họp vào ngày 19/6, Từ Hy biểu thị tối hậu quyết tâm, hạn Công sứ các nước phải ra khỏi kinh đô trong 24 giờ, mệnh Dụ Lộc triệu tập Nghĩa Hoà đoàn trợ giúp quan quân chống cự Tây dương. Sáng ngày 20 triệu tập Quân cơ đại thần tuyên bố khai chiến. Ngày 21/6 hạ chiếu tuyên chiến, đả kích kịch liệt về việc 30 năm nay Trung Quốc bị ngoại bang áp bức:
:''“...Khinh nhục quốc gia ta, xâm lấn đất đai ta, dày xéo dân ta, hạch sách của cải; triều đình càng nhường nhịn, bọn chúng càng hung hoành, ngày càng quá quắt, không gì không làm. Nhỏ thì áp bức nhân dân, lớn thì khinh mạn thần thánh, con dân nước ta cùng chung lửa hận, ai mà chịu cam tâm; đó là do lai tại sao nghĩa dũng đốt giáo đường, giết giáo dân. Triều đình vẫn không gây hấn, che chở như trước… Bọn chúng không biết cảm khích, lại còn buông tuồng đòi hỏi chèn ép… công nhiên đòi ta phải rút khỏi pháo đài Đại Cô. Trong sự giao thiệp với lân quốc hàng ngày, ta chưa từng thất lễ với họ; bọn chúng tự xưng là nước có giáo hoá lại vô lễ hoành hành, chuyên dựa vào binh mạnh, khí giới sắc bén… Trẫm nay khóc cáo tiên miếu, khẳng khái thề với quân dân, so với việc cẩu thả mong sống còn, lưu nhục đến vạn cổ; chi bằng ra tay đánh dẹp, nhất quyết thư hùng. Qua mấy ngày triệu kiến Đại thần, bàn mưu đồng lòng, các tỉnh gần kinh kỳ như Sơn Đông, nghĩa dũng tụ tập không dưới mấy chục vạn, cho đến các nhi đồng cũng có thể cầm qua bảo vệ xã tắc. Chúng dùng mưu xảo trá, ta dựa vào lẽ trời; chúng dựa vào sức lực hung hãn, ta dựa vào nhân tâm. Nhân dân ta lấy nhân nghĩa làm giáp trụ, lấy lễ nghĩa làm khí giới, người người liều chết với giặc; với đất đai hơn 22 tỉnh, dân cư hơn 400 triệu, không khó dẹp sự hung dữ của các ngươi, để biểu dương uy thế quốc gia.”''
 
Thư tuyên chiến trình bày nhiều sự thực, lời văn bi tráng, có được phần nào sự đồng tình của nhân dân. Tiếc rằng việc tuyên chiến của Từ Hy không xét kỹ đến thời thế, làm liều một mất một còn, tuyên chiến cùng lúc với nhiều nước nên thế thua đã rõ.
 
Sau khi tuyên chiến, hàng loạt địa phương diễn ra việc người dân truy sát giáo dân, giáo sĩ vì cho đó là tay sai của quân Tây dương. Thống kê cả nước số giáo sĩ bị giết khoảng 250 người, phần lớn người nước Anh, tiếp đến các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, số giáo dân nhà bị phá, người bị giết có đến hàng vạn.
 
Tại Thiên Tân, ngày 17/6, pháo đài Đại Cô mất, quân Thanh và Nghĩa Hoà đoàn vây đánh tô giới Thiên Tân. Lực lượng liên quân tại Đại Cô, trước hết giải vây tô giới Thiên Tân, chiếm cục cơ khí, rồi tấn công thành Thiên Tân, Vũ Vệ quân chống cự trong 9 ngày, Niếp Sĩ Thành tử trận; Mã Ngọc Côn đánh tô giới cũng thua. Thiên Tân đến ngày 14/7 bị hãm. Liên quân càng hung tàn, tử thi chồng chất, phòng ốc bị phá huỷ 8-9/10. Sau đó các nước phân chia khu vực chiếm lãnh, càn quét không dừng, số đông phụ nữ bị ô nhục. Ngày 30 tháng 7, tạm thi hành “Quản lý trong ngoài quận thành địa phương sự vụ nha môn” thì việc sống chết, cướp đoạt tự ý thi hành.
 
Nhưng chỉ một thời gian ngắn đã để mất [[Bắc Kinh]] và cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới [[Tây An]]. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho [[Lý Hồng Chương]], thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ.