Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 129:
===Chiến tranh Nhật - Thanh===
{{main|Chiến tranh Giáp Ngọ}}
Cuối thế kỷ 19, Trung Quốc dưới thời nhà Thanh suy yếu từng bước bị phương Tây xâu xé. Đế quốc Nhật Bản cũng bắt đầu nhòm ngó, nước này muốn đánh chiếm [[Triều Tiên]] (khi đó là một chư hầu dưới sự bảo trợ của nhà Thanh). Nhật Bản đã áp đặt [[Hòa ước Giang Hoa]] lên Triều Tiên, ép Triều Tiên phải tự mở cửa cho người Nhật và ngoại thương và tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại.
 
Mặc dù Quân đội Bắc Dương - [[Lục quân Bắc Dương]] và [[Hạm đội Bắc Dương]] – được trang bị tốt nhất và tượng trưng cho quân đội Thanh hiện đại, song [[tham nhũng]] là một vấn đề nghiêm trọng làm xói mòn sức mạnh quân đội. Các quan lại nhà Thanh biển thủ công quỹ một cách có hệ thống, thậm chí ngay cả trong giai đoạn chiến tranh. Kết quả là, Hạm đội Bắc Dương không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1868. Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được Từ Hy Thái hậu chuyển sang xây dựng [[Di Hòa Viên]] ở Bắc Kinh. Hậu cần gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt [[Mãn Châu]] đã bị đình lại. Sĩ khí của quân đội Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương và uy thế, việc sử dụng [[thuốc phiện]], và lãnh đạo kém góp phần vào những cuộc thất bại nhục nhã của quân Thanh trong cuộc chiến, ví dụ như việc bỏ đồn [[Uy Hải|Uy Hải Vệ]] được trang bị tốt và hoàn toàn có thể phòng ngự.
Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh được trang bị mạnh với 78 chiến thuyền được nhập khẩu từ phương Tây, tổng lượng giãn nước 83.900 tấn, xét về số lượng thì vượt trội so với hạm đội Nhật. Ấy thế nhưng do chỉ huy và huấn luyện kém, hạm đội này đã bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn
 
Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh được trang bị mạnh với 78 chiến thuyền được nhập khẩu từ phương Tây, tổng lượng giãn nước 83.900 tấn, xét về số lượng thì vượt trội so với hạm đội Nhật. Ấy thế nhưng do chỉ huy và huấn luyện kém, hạm đội này đã bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn. Ở trên bộ cũng vậy, quân Nhật đánh thắng quân Thanh như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã chiếm toàn bộ Triều Tiên.
 
[[Hiệp ước Shimonoseki|Hòa ước Mã Quan]] ký ngày [[17 tháng 4]] [[1895]] theo đó nhà Thanh công nhận sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại [[bán đảo Liêu Đông]] (ngày nay là phía Nam [[liêu Ninh|tỉnh Liêu Ninh]]) cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc bồi thường chiến phí. Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào sông [[Trường Giang]], mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ [[bán đảo Liêu Đông]] để đổi lấy 30 triệu lạng bạc ''(450 triệu [[yên Nhật|yen]])''.
 
Đây là một đòn chí mạng vào nhà Thanh và truyền thống cổ truyền Trung Quốc. Trước kia nhà Thanh thua Anh, Pháp đều là các nước phương Tây ở xa tới. Còn Nhật Bản vốn là một nước láng giềng, mà Trung Quốc từ lâu luôn xem là một [[chư hầu]] nhỏ bé và kém cỏi, thì nay đã đánh bại chính Trung Quốc. Các nước phương Tây thấy sự yếu kém của nhà Thanh nên sau đó cũng tham gia xâu xé Trung Quốc. Trước tiên là [[Đế quốc Đức]] mượn cớ hai Giáo sĩ truyền đạo bị giết ở Sơn Đông, xuất binh chiếm lĩnh vịnh Giao Châu. Một tháng sau, nước Nga lại xuất binh chiếm lĩnh Đại Liên và cảng [[Lữ Thuận]], khống chế vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nước Pháp thì đem quân tới Vân Nam và Lưỡng Quảng; Nhật Bản lại chiếm cứ Phúc Kiến; nước Anh lại cưỡng bức phải cho thuê cảng, mở rộng phạm vi quản lý Cửu Long. Trong vài năm, đế quốc Đại Thanh liên tiếp bị mất đất.
 
Cuộc chiến cũng đã hé lộ sự thiếu hiệu quả của triều đình, các chính sách, sự tham nhũng trong hệ thống hành chính và sự mục nát của nhà Thanh (điều đã được nhận rõ từ hàng thập kỷ trước đó). Tình cảm bài ngoại công khai tăng lên và sau này lên tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa [[Nghĩa Hòa Đoàn]] 5 năm sau đó. Trong suốt thế kỷ 19, nhà Thanh không thể ngăn ngừa được sự xâm phạm lãnh thổ của nước ngoài — điều này cùng với lời kêu gọi cải cách và nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn sẽ là nhân tố chủ chốt dẫn đến cuộc cách mạng năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912.