Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Barbarossa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 382:
[[Tập tin:Bundesarchiv B 145 Bild-F016204-04, Russland, Panzerwerk über dem Dnjestr.jpg|nhỏ|trái|256px|Hỏa điểm với xe tăng được chôn ngầm trong locot bên bờ sông Dniestr]]
 
Mặc dù kìm chân được Tập đoàn quân 6 và quân đoàn xe tăng 48 của tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) ở khu vực Korosten - Kiev nhưng tại cánh Nam, ngày 2 tháng 8, tập đoàn quân 17 và chủ lực tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã hợp vây các tập đoàn quân 6 và 12 của Quân đội Liên Xô tại Uman.<ref>{{Harvnb|Vasilevsky|1984|pp=46-47}}</ref> Vì những thiếu hụt về binh lực, Bộ tư lệnh [[Phương diện quân Nam]] đề nghị cho rút về tuyến sông Ingrun. Tuy nhiên, I. V. Stalin không đồng ý rút nhanh và yêu cầu phải phòng thủ Odessa đến hết khả năng. Trong khi Phương diện quân Tây Nam chưa giải vây được cho hai tập đoàn quân 6 và 12 tại vùng Uman thì ngày 8 tháng 8, tập đoàn quân 2 và tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) mở cuộc tấn công xuống [[Gomel]], [[Chernihiv|Chernigov]], [[Roslavl]] và [[Starodub]], đẩy lùi [[Phương diện quân Trung tâm]] (Liên Xô) sâu đến hơn 100&nbsp;km. Để cứu vãn tình hình ở khu vực này. Ngày 8 tháng 8, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã thành lập [[Phương diện quân Bryansk]] gồm hai tập đoàn quân 13 và 50 do tướng A. I. YeriomenkoYeryomenko chỉ huy nhưng do lực lượng quá mỏng (chỉ có 7 sư đoàn bộ binh) Phương diện quân này cùng với Phương diện quân Trung tâm cũng không khôi phục được tình hình mà còn bị đẩy lùi sâu thêm về hướng Đông, làm cho tuyến mặt trận của [[Phương diện quân Tây Nam]] vốn đã dài trên 800&nbsp;km nay lại kéo dài thêm hơn 100&nbsp;km nữa.<ref>{{Harvnb|Vasilevsky|1984|pp=56-57}}</ref>
 
Ngày 4 tháng 8, thống chế [[Walther von Reichenau]] tập trung bộ binh, xe tăng, cơ giới và gần như toàn bộ tập đoàn quân không quân 4 vào một chính diện hẹp và mở cuộc đột kích khu phòng thủ Kiev từ các hướng Tây và Tây Nam. Mặc dù Phương diện quân Tây Nam được tăng cường thêm hai tập đoàn quân 38 (chỉ có 5 sư đoàn) và lữ đoàn đổ bộ đường không số 5 nhưng phải rải quân trên chính diện hơn 350&nbsp;km quanh Kiev nên tại đoạn đột phá, quân Đức vẫn chiếm ưu thế. Từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 8, hơn 30 trận kịch chiến đã diễn ra quanh Kiev với thiệt hại rất lớn cho cả hai bên. Ngày 9 tháng 8, quân đoàn 6 cơ giới (Đức) đã đột phá đến Myshalovka và Sovki. Phương diện quân Tây Nam không còn lực lượng dự bị cho hướng này. Ngày 16 tháng 8, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đồng ý với đề nghị của nguyên soái Semeon Budyonny, Tổng tư lệnh hướng Tây Nam cho rút tập đoàn quân 5 sang tả ngạn sông Dnepr. Việc này giúp cho Phương diện quân thu hẹp chính diện mặt trận để rút ra tám sư đoàn dự bị để sử dụng cho khu phòng thủ Kiev; nhưng cũng làm cho tập đoàn quân 6 (Đức) được "rảnh tay" ở phía Bắc và điều các đơn vị ở hướng này đến cửa ngõ Kiev. Phát hiện quân đội Liên Xô rút quân, ngày 22 tháng 8, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) đã đánh chiếm cây cầu Okuninovo và một số bến vượt trên đường rút quân của Tập đoàn quân 5 (Liên Xô). Quân đoàn 27 (Tập đoàn quân 5) có nguy cơ bị bao vây bên hữu ngạn sông Dnepr. Vượt qua cây cầu này, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) lao nhanh về Kiev; buộc bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phải cho phá sập toàn bộ các cầu trên sông Dnepr và Desna. Ngày 24 tháng 8, cầu Okuninovo bị không quân Liên Xô phá sập sau khi Quân đoàn 27 đã rút hết sang tả ngạn Dnepr.<ref>{{Harvnb|Bagramian|1986|pp=310-317}}</ref>
Dòng 390:
[[Tập tin:Kyiv-Maidan-1941.jpg|nhỏ|phải|350px|Khu Maidan, thành phố Kiev bị máy bay Đức quốc xã ném bom hủy diệt, mùa hè năm 1941]]
 
Đến tận ngày 15 tháng 9, khi hai tập đoàn quân xe tăng và ba tập đoàn quân dã chiến Đức đã khép vòng vây quanh ba tập đoàn quân Liên Xô ở phía Đông Kiev nhưng I. V. Stalin vẫn coi nhẹ nguy cơ chủ lực Phương diện quân Tây Nam bị vây cũng như không xem xét nghiêm chỉnh đề nghị rút quân của Tổng tư lệnh hướng Tây Nam và Bộ tư lệnh Phương diện quân. Ông đánh giá quá cao ý nghĩa của các cuộc tấn công hạn chế của Phương diện quân Tây, Phương diện quân Dự bị và [[Phương diện quân Briansk|Phương diện quân Bryansk]] vào sườn trái của tập đoàn quân xe tăng 2, đặc biệt là quá tin vào lời cam kết của tư lệnh Phương diện quân Bryansk, tướng YeriomenkoYeryomenko, rằng cuộc tấn công của Phương diện quân Bryansk sẽ giúp phá được vòng vây; do vậy Stalin đã để lỡ cơ hội rút quân của chủ lực Phương diện quân Tây Nam. Chỉ đến ngày 17 tháng 9, khi tình hình mặt trận Tây Nam đã rõ ràng không thể cứu vãn được. Stalin mới đồng ý cho rút quân nhưng đã quá muộn. Trong các trận chiến đấu phá vây từ 17 đến 19 tháng 9, chỉ có 1/4 lực lượng của Phương diện quân Tây Nam thoát vây. Tư lệnh phương diện quân, tướng M. P. Kirponosh, tham mưu trưởng phương diện quân, tướng P. I. Tupikov và ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân M. A. Burmistenko tử trận.
 
Ngày 20 tháng 9, Nguyên soái Semeon Timoshenko được chỉ định làm Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam đã thu thập các đơn vị còn lại và bố trí phòng thủ trên tuyến Belopolye, Lebedyn, Krasnograd, Novomoskovsk. Cùng với hai bộ tư lệnh hướng Tây Bắc và Tây, Bộ tổng tư lệnh hướng Tây Nam bị giải thể.<ref>{{Harvnb|Vasilevsky|1984|pp=62-64}}</ref> Cuộc phòng thủ Kiev kết thúc với kết quả không như mong muốn của các nhà quân sự Liên Xô. Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm trọn phần nửa phía Tây Ukraina. Khoảng 100.000 quân nhân Liên Xô đã chết hoặc bị thương, và 560.000 người bị bắt làm [[tù binh]].<ref>{{Harvnb|Parker|2006|p=398}}</ref> Thiệt hại của quân Đức thấp hơn nhiều, khoảng 128.000 quân Đức chết hoặc bị thương trong chiến dịch này.