Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thảo luận:Hôn nhân cùng giới”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 59:
[[Thành viên:Phucuongdt|Phucuongdt]] ([[Thảo luận Thành viên:Phucuongdt|thảo luận]]) 01:55, ngày 5 tháng 9 năm 2019 (UTC)
 
'''Ví dụ, toàn bộ đoạn này đã bị tài khoản rối này lợi dụng xóa bỏ sạch tại phiên bản hiện tại:'''
 
====Sự đồng thuận====
Dòng 80:
 
Quan điểm rằng các cặp cha mẹ dị tính là tốt hơn hơn những cặp đồng tính, hoặc là con của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng tính nam tồi tệ hơn so với trẻ em của cha mẹ khác giới, không được hỗ trợ bởi các bằng chứng khoa học thực nghiệm được tích lũy"<ref name="dx5br1z4f6n0k.cloudfront.net"/>.
</blockquote>
[[Thành viên:Phucuongdt|Phucuongdt]] ([[Thảo luận Thành viên:Phucuongdt|thảo luận]]) 02:10, ngày 5 tháng 9 năm 2019 (UTC)
 
'''Hay toàn bộ đoạn về kết quả nghiên cứu của các tổ chức khoa học này cũng bị xóa:'''
Trong tóm tắt nghị quyết chung của các hiệp hội Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa hoa kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý các bang Kentucky và Ohio, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu bang Michigan, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội các bang Tennessee, Michigan, Kentucky và Ohio đã nêu:<ref name="dx5br1z4f6n0k.cloudfront.net"/>
 
</blockquote>
Có một số ít các nguồn gợi ý rằng cha mẹ đồng tính có thể có tác động tiêu cực đối với trẻ em thì các nguồn này đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ những sai sót về phương pháp luận và không phản ánh tình trạng của kiến thức khoa học hiện tại. Cụ thể, kết luận tiêu cực của ba nhà nghiên cứu thường được trích dẫn bởi các đối thủ của hôn nhân đồng giới là Sarantakos, Regnerus và Allen - đã tạo ra một chấn động lớn khi bị bác bỏ, từ chối bởi các cộng đồng khoa học chính thống. Những sai sót trong phương pháp luận nghiên cứu của Sarantakos, Regnerus và Allen đã làm cho công việc của họ "Không liên quan đến các cuộc thảo luận thực nghiệm về nuôi dạy con và khuynh hướng tình dục. Kiểm toán viên độc lập được bổ nhiệm bởi các tạp chí đó được đăng bài Regnerus của mô tả nó như là "một nghiên cứu không khoa học" và kết luận nó không nên đã được công bố. Những sai sót trong nghiên cứu của Regnerus đã được chỉ ra trong bản kiến nghị của 200 nhà nghiên cứu. MJ Rosenfeld trả lời Allen trong Dân số học năm 2012 rằng phát hiện tồi tệ của Allen về kết quả học tập là do sai sót về phương pháp luận, bao gồm không kiểm soát đối với tác động của ly hôn và các yếu tố khác. Các tài liệu công bố gần đây của Donald Paul Sullins cho thấy tất cả các báo cáo phân tích thứ cấp của dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn y tế quốc gia Khảo sát (NHIS) của Sullins - có sai sót về phương pháp luận tương tự...</blockquote>
 
Trong nghị quyết về "Định hướng tình dục, cha mẹ và trẻ em" thông qua năm 2004, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ đã phân tích <ref>[http://www.apa.org/about/policy/parenting.aspx Adopted by the APA Council of Representatives July 28 & 30, 2004.]</ref>:
 
<blockquote>"Nhiều người đồng tính nữ và đồng tính nam làm cha mẹ. Có ba mối quan tâm lớn về người đồng tính làm cha mẹ thường được nêu ra. Chúng bao gồm các mối quan ngại rằng đồng tính luyến ái là bị bệnh tâm thần, rằng đồng tính nữ có ít thiên chức làm mẹ hơn so với phụ nữ dị tính, và rằng các cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có rất ít thời gian cho các mối quan hệ của họ với con cái của họ. ''Nói chung, các nghiên cứu đã không cung cấp một cơ sở nào cho bất kỳ các mối quan tâm trên''. Đầu tiên, đồng tính luyến ái không phải là một bệnh hay rối loạn tâm lý, không có bằng chứng đáng tin cậy rằng khuynh hướng đồng tính luyến ái làm suy yếu chức các năng tâm lý. Thứ hai, niềm tin mà người đồng tính nữ và đồng tính nam không phải phù hợp làm cha mẹ phù hợp không có nền tảng nghiên cứu thực nghiệm. Các thành viên trong cặp vợ chồng đồng tính đã được phát hiện sự phân chia các công việc gia đình và chăm sóc con cái một cách đồng đều hơn, và sự hài lòng với mối quan hệ với đối tác của họ. Không có cơ sở khoa học để kết luận rằng các bà mẹ đồng tính nữ hay những người cha đồng tính làm cha mẹ là không thích hợp trên cơ sở định hướng tình dục của họ. Ngược lại, các kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có đầy đủ khả năng làm cha mẹ như các cặp dôi khác giới để cung cấp môi trường hỗ trợ nuôi dưỡng lành mạnh cho con cái của họ.
 
Có ba mối quan tâm lớn về sự ảnh hưởng của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính trên trẻ em đã được thường được nêu ra. Một là, con cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính sẽ được trải nghiệm nhiều khó khăn trong lĩnh vực nhận dạng giới tính hơn so với trẻ em của cha mẹ khác giới. Ví dụ, trẻ em được của các cặp đồng tính sẽ hiển thị rối loạn nhận dạng giới tính và/hoặc hành vi-vai trò giới tính. Loại thứ hai của mối quan tâm liên quan đến các khía cạnh của phát triển của trẻ em với bản sắc tính dục bản thân. Ví dụ, một số nhà quan sát đã bày tỏ lo ngại rằng trẻ em dưới sự giám sát của cha mẹ đồng tính dễ bị suy sụp tinh thần, sẽ hiển thị nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh các vấn đề hành vi, hoặc sẽ không khỏe mạnh về tâm lý như những đứa trẻ khác. Một loại thứ ba của mối quan tâm là con cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính sẽ gặp khó khăn trong các mối quan hệ xã hội. Ví dụ, một số nhà quan sát đã bày tỏ lo ngại rằng trẻ em sống với bà mẹ đồng tính nữ hay những người cha đồng tính sẽ bị kỳ thị, trêu chọc, hay nói cách khác là nạn nhân của các đồng nghiệp. Một nỗi sợ hãi phổ biến là trẻ em sống chung với cha mẹ đồng tính nam hoặc đồng tính nữ sẽ có nhiều khả năng bị lạm dụng tình dục bởi cha mẹ hoặc bạn bè của cha mẹ hoặc người quen. ''Kết quả của nghiên cứu khoa học xã hội đã không xác nhận bất kỳ mối quan tâm về con cái của cha mẹ đồng tính nào nêu trên''.
 
Các nghiên cứu đều cho thấy rằng bản sắc tình dục (bao gồm cả bản sắc giới tính, hành vi giới tính, vai trò của xu hướng tình dục) phát triển giống nhau ở con cái các bậc cha mẹ đồng tính và con cái của các bậc cha mẹ khác giới. Các bằng chứng cũng cho thấy rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có mối quan hệ xã hội bình thường với các bạn bè và người lớn. Những lo ngại về con cái của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng tính bị lạm dụng tình dục bởi người lớn, bị tẩy chay bởi các đồng nghiệp, hoặc bị cô lập trong cộng đồng... đã không nhận được sự hỗ trợ nào từ khoa học. Nhìn chung, kết quả các nghiên cứu cho thấy sự phát triển, điều chỉnh, và hạnh phúc của con cái của các bậc cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam không có sự khác biệt so với những trẻ em của cha mẹ khác giới."</blockquote>
 
[[Tập tin:Gay troue.jpg|thumb|210px|Lễ kết hôn của một cặp đôi đồng tính nữ tại [[Cộng hòa Nam Phi]] năm 2007]]
 
[[Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ]] - tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp gồm hơn 13.000 thành viên, với một lịch sử lâu dài trong việc trình bày các kết quả nghiên cứu được sự đồng thuận của các nhà [[xã hội học]] để các tòa án ở Hoa Kỳ sử dụng trong việc đánh giá chứng cứ và các vấn đề pháp lý, trong Bản tóm tắt gửi [[Tòa án tối cao]] đã nói:<ref>[http://www.asanet.org/press/amicus_brief_marriage_equality_2015.cfm ASA Files Amicus Brief With Supreme Court in Support of Marriage Equality]</ref>:
 
<blockquote>"Hiện nay, có hơn 200.000 trẻ em ở Mỹ sống với cha mẹ đồng tính, và gần 72% dân số Mỹ sống ở một nơi mà luật pháp đã bình đẳng hôn nhân. Kết quả các nghiên cứu [[khoa học xã hội]] trong nhiều thập kỷ, trong đó có nhiều nghiên cứu quy mô quốc gia và những bằng chứng chuyên gia giới thiệu tại các tòa án trên khắp đất nước, đã khẳng định rằng phúc lợi tích cực của trẻ em là sản phẩm của ''sự ổn định'' trong ''mối quan hệ giữa hai bố mẹ'' và ''mối quan hệ giữa cha mẹ với đứa trẻ'', và ''các nguồn lực kinh tế xã hội'' của cha mẹ. Và các phúc lợi của trẻ em ''không phụ thuộc vào giới tính hoặc khuynh hướng tình dục'' của cha mẹ.
 
Các nhóm phản đối của hôn nhân đồng tính ở Mỹ và trên khắp thế giới thường xuyên hiểu sai hoặc xuyên tạc các nghiên cứu khoa học xã hội, nói rằng trẻ em có cha mẹ đồng tính có kết cục tồi tệ hơn so với trẻ có cha mẹ khác nhau tính. Đặc biệt, đối thủ của hôn nhân đồng tính thường xuyên trích dẫn nghiên cứu sai trái của Mark Regnerus, và gần đây đã bắt đầu hiểu sai công việc của Paul Sullins để thúc đẩy những lập luận chống lại hôn nhân đồng tính...
 
Chúng tôi đã rất tích cực trong vấn đề này bởi vì lương tâm của chúng ta không thể đứng nhìn và cho phép các đối thủ hôn nhân đồng giới tiến hành những chiến dịch nào đó nhằm bóp méo các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội trong một nỗ lực để từ chối quyền kết hôn của người đồng tính. Các bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy rằng cha mẹ đồng tính là bình đẳng cũng như có khả năng nuôi dạy con cái tốt như cha mẹ khác giới, và tòa án cũng như công chúng, nên được hiểu rõ ràng về thực tế này trước khi đưa ra phán quyết hay nhận định về hôn nhân đồng tính.
 
Những nỗ lực của ASA để làm nổi bật sự đồng thuận của giới khoa học liên quan đến con cái của cha mẹ đồng tính ở các tòa án đã bắt đầu từ tháng 2 năm 2013. Kể từ thời điểm đó, chúng tôi đã nộp tóm tắt của mình ở nhiều Toà án khác nhau của một số tiểu bang còn cấm đoán ở Mỹ để xem xét vấn đề luật pháp liên quan về hôn nhân đồng tính. Với những bằng chứng nghiên cứu khoa học xã hội đã được ASA thực hiện và kiểm tra triệt để, sự thật chứng minh rằng trẻ em chỉ nhận được kết quả tốt khi được nuôi bởi cha mẹ đồng tính giống như khi được nuôi bởi cha mẹ khác giới. Nỗi sợ hãi vô căn cứ về con cái của cha mẹ đồng tính không vượt qua được những kết quả nghiên cứu."</blockquote>
 
[[Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ]] (AACAP), đại diện cho hơn 8.500 bác sĩ tâm thần về trẻ em và thanh thiếu niên đã khẳng định năm 2013<ref>{{cite journal|author=American Academy of Child & Adolescent Psychiatry|title=Children with Lesbian, Gay, Bisexual, and Transgender Parents|journal=Facts For Families|date=August 2013|volume=No. 92.|url=http://www.aacap.org/App_Themes/AACAP/docs/facts_for_families/92_children_with_lesbian_gay_bisexual_transgender_parents.pdf|accessdate=ngày 4 tháng 10 năm 2013}}</ref>:
 
<blockquote>"Đôi khi mọi người đang lo ngại rằng trẻ em được nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính sẽ cần hỗ trợ tinh thần thêm hoặc phải đối mặt với những căng thẳng xã hội. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy trẻ em của các cha mẹ đồng tính không khác với trẻ em của cha mẹ khác giới trong việc phát triển tâm lý, tình cảm của họ hoặc các mối quan hệ của họ với những bạn bè đồng lứa và người lớn xung quanh. Nó là quan trọng cho các cha mẹ hiểu rằng, đó là các yếu tố như ''chất lượng cặp cha mẹ'' và ''các mối quan hệ của cha mẹ với con cái'' chứ không phải thiên hướng tình dục của cha mẹ có ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trái ngược với niềm tin phổ biến thì con cái của các cha mẹ đồng tính nam, đồng tính nữ và người chuyển giới:
 
:•''Không có khả năng trở thành đồng tính hơn trẻ em của cha mẹ khác giới.''
 
:•''Không có nhiều khả năng bị lạm dụng tình dục.''
 
:•''Không thấy sự khác biệt trong việc họ tự cho rằng mình là nam hay nữ (đồng giới).''
 
:•''Không thấy sự khác biệt ở các hành vi, vai trò đặc trưng của các giới tính nam và nữ''."</blockquote>
 
Theo [[Hiệp hội tâm lý học Canada]] (CPA)<ref name=cpa2005>[http://www.cpa.ca/cpasite/UserFiles/Documents/advocacy/brief.pdf Brief presented to the Legislative House of Commons Committee on Bill C38 by the Canadian Psychological Association – ngày 2 tháng 6 năm 2005.]</ref>:
 
<blockquote>"Vào mùa thu năm 2003, CPA đã ban hành một thông cáo báo chí bác bỏ các tuyên bố về năng lực làm cha mẹ thấp của người đồng tính và những tác động của hôn nhân đồng giới trên trẻ em đã được thực hiện bởi các cá nhân và các nhóm chống đối hôn nhân đồng tính. Các bằng chứng khoa học có sẵn đã chỉ ra rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính nam và nữ không có sự khác biệt đáng kể so với con của cha mẹ khác giới đối với sự phát triển tâm lý xã hội cũng như hình thành bản sắc giới tính. Các nghiên cứu đã cho thấy:
 
:•''Người đồng tính nam và đồng tính nữ coi trọng mối quan hệ gắn kết''.
 
:•''Các cặp vợ chồng đồng tính tương đương các cặp khác giới về chất lượng mối quan hệ''.
 
:•''Cha mẹ đồng tinh nam và nữ có khả năng như cha mẹ khác giới để cung cấp môi trường nuôi dưỡng tốt, hỗ trợ lành mạnh cho con cái của họ''.
 
:•''Khuynh hướng tình dục, tính cách và các mối quan hệ xã hội ở trẻ em ở các vợ chồng đồng tính phát triển tương tự như trẻ em của các cha mẹ khác giới''.
 
Niềm tin rằng người đồng tính nam và đồng tính nữ người lớn không phù hợp với các bậc cha mẹ, hoặc sự phát triển tâm lý xã hội của trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính bị tổn thương ''là không có căn cứ khoa học''. Tuyên bố của chúng tôi dựa trên việc xem xét đại diện cho khoảng 50 nghiên cứu thực nghiệm và ít nhất thêm 50 bài báo và chương sách và đã thực hiện không ngừng nghỉ trên các kết quả của bất kỳ một nghiên cứu. Những bài viết này xuất hiện trên các tạp chí như: Tạp chí Tâm lý học phát triển, Tạp chí Tâm lý trẻ em và tâm thần học, Tạp chí tâm lý học Mỹ, Tạp chí Hôn nhân và Gia đình, Tạp chí tâm thần học hành vi và các tạp chí về quan hệ gia đình, vai trò giới tính - tình dục và công tác xã hội đã khẳng định:
 
:•''Không có bằng chứng trong các tài liệu tâm lý học hỗ trợ rằng người đồng tính nam và đồng tính nữ là ít phù hợp làm cha mẹ hơn các cặp khác giới''.
 
:•''Không có bằng chứng trong các tài liệu tâm lý học hỗ trợ quan điểm sự phát triển tâm lý xã hội, bản sắc giới của trẻ em bị tổn hại bởi khuynh hướng tình dục của cha mẹ.''"</blockquote>
 
Trong một tuyên bố năm 2006, Hiệp hội Tâm lý học Canada phát hành một báo cáo cập nhật về kết luận năm 2003 và 2005 và nói rằng: "Các CPA công nhận và đánh giá cao việc các cá nhân và tổ chức được quyền ý kiến và nêu quan điểm về vấn đề này. Tuy nhiên, CPA lo ngại rằng một số người và các tổ chức là chống đối tiêu cực, đã giải thích sai lệch những phát hiện của nghiên cứu tâm lý để hỗ trợ cho địa vị - vị trí của họ, khi vị trí của họ chính xác hơn là dựa trên hệ thống khác của niềm tin - tín ngưỡng và các giá trị<ref>[http://www.cpa.ca/cpasite/UserFiles/Documents/Practice_Page/Marriage_SameSex_Couples_PositionStatement.pdf Marriage of Same-Sex Couples– 2006 Position StatementCanadian Psychological Association]</ref>. Các tổ chức khoa học chuyên nghiệp đã lưu ý rằng những nghiên cứu mà các tổ chức chống đối đã sử dụng như bằng chứng rằng các cặp vợ chồng đồng tính làm cha mẹ không thích hợp đã không tiếp cận chính xác vào các cặp cha mẹ đồng tính, và do đó không cho phép bất kỳ kết luận nào được rút ra về những ảnh hưởng của giới tính hoặc khuynh hướng tình dục của cha mẹ lên con cái. Thay vào đó, những nghiên cứu này chỉ lấy mẫu cha mẹ khác giới, thấy rằng nó là tốt hơn cho trẻ em được nuôi dưỡng bởi hai cha mẹ thay vì một, và/hoặc ảnh hưởng của ly hôn hoặc cái chết của cha mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em.<ref name=cpa2012>{{chú thích web|title=Marriage of Same-Sex Couples &nbsp;– 2006 Position Statement |url=http://www.cpa.ca/cpasite/userfiles/Documents/Practice_Page/Marriage_SameSex_Couples_PositionStatement.pdf |publisher=[[Canadian Psychological Association]] |accessdate=ngày 28 tháng 9 năm 2012 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/20120707191052/http://www.cpa.ca/cpasite/userfiles/Documents/Practice_Page/Marriage_SameSex_Couples_PositionStatement.pdf |archivedate=ngày 7 tháng 7 năm 2012 }}</ref><ref name=S14799>[http://www.courts.ca.gov/Amer_Psychological_Assn_Amicus_Curiae_Brief.pdf Case No. S147999 in the Supreme Court of the State of California, In re Marriage Cases Judicial Council Coordination Proceeding No. 4365, Application for leave to file brief [[Amicus curiae|amici curiae]] in support of the parties challenging the marriage exclusion, and brief amici curiae of the American Psychological Association, California Psychological Association, American Psychiatric Association, National Association of Social Workers, and National Association of Social Workers, California Chapter in support of the parties challenging the marriage exclusion]</ref>
 
'''Kính đề nghị các Bảo quản viên cho khôi phục lại nội dung bài viết bị phá hoại.'''
 
02:16, ngày 5 tháng 9 năm 2019 (UTC)
Quay lại trang “Hôn nhân cùng giới”.