Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Nguyễn Huệ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 56:
Sau bốn ngày đêm, ngày 4 tháng 4, đoàn C30B đã tiêu diệt cụm cứ điểm tiền tiêu Xa Mát, đánh thiệt hại nặng chiến đoàn 49, làm chủ từ bắc Thiện Ngôn đến biên giới. Cùng lúc, các lực lượng lớn cho hướng chủ yếu đã được triển khai trót lọt, tạo thuận lợi cho bước phát triển chiến dịch.
 
5 giờ 50 phút ngày 5 tháng 4, trận mở đầu trên hướng chủ yếu nổ ra. Các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bỏ qua các căn cứ vòng ngoài, thọc thẳng vào trung tâm cụm cứ điểm Lộc Ninh. Ngay ngày đầu, cụm cứ điểm Lộc Ninh đã bị vây lấn tiêu diệt, toàn bộ lực lượng VNCH (hai tiểu đoàn bộ binh, một [[trung đoàn]] thiết giáp) đóng chốt ở căn cứ Hoa Lư - một căn cứ quan trọng của tuyến phòng thủ phía bắc được lệnh rút bỏ về phía sau để ứng cứu cho Lộc Ninh. Sang ngày thứ hai (6 tháng 4), toàn bộ lực lượng này lọt vào trận địa phục kích bày sẵn và bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngày thứ ba, hai trung đoàn của Công Trường 5 (F5) được tăng cường một trung đoàn pháo - cối hoả tiễn, hai đại đội xe tăng từ hai hướng tây - bắc và đông tiếp tục tiến công. Đến chiều ngày 7 tháng 4, QGP hoàn toàn làm chủ cụm cứ điểm Lộc Ninh, đại tá Nguyễn Công Vĩnh, chỉ huy chiến đoàn 9 ra hàng.
[[Tập tin:This NVA T-54 tank was knocked out just as it attempted to breach the barbed wire around the Binh Long Province compound near the southern gate of An Loc.png|nhỏ|trái|200px|Tăng t-54 quân giải phóng bị bắn cháy phía nam An Lộc]]
Bước đầu của chiến dịch kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 1972 với những thắng lợi vượt mức dự kiến của [[Bộ chỉ huy Miền]]. Chỉ trong tám ngày tiến công, QGP đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu ba chiến đoàn và một tiểu đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp, thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, diệt và bức rút nhiều đồn bốt, phá tan tuyến phòng thủ phía trước trên vòng cung phía bắc Sài Gòn, dọc theo biên giới Đông Nam Bộ. Tại miền trung, Giải phóng đã kiểm soát thêm các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân và nửa phía bắc huyện Phù Mỹ với trên 20 vạn dân.
 
Đêm 6 tháng 4, sau khi nhận được tin trung đoàn thiết giáp của QLVNCH tại Lộc Ninh đã bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy Miền họp bàn và đề nghị Bộ chỉ huy chiến dịch tranh thủ thời cơ lúc QLVNCH chưa có tăng viện lớn cho khu vực thị xã An Lộc ngoài việc đưa tiếp lực lượng sư đoàn 5F5 lên làm nhiệm vụ phòng giữ cầu Cần Lê chưa bị phá, đưa F9 với hỏa lực mạnh nhất có thể để để tiến công chiếm lĩnh thị xã An Lộc, chậm nhất là vào ngày 9 tháng 4.
 
Tuy nhiên, do không có kế hoạch chi tiết từ trước nên công tác chuẩn bị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bị chậm trễ và gặp nhiều khó khăn. Đến ngày 13 tháng 4, [[trận An Lộc|cuộc tiến công vào An Lộc]] mới bắt đầu, nhưng thời cơ đã mất. Cho đến ngày hôm đó, QLVNCH đã kịp củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ tại An Lộc. Tướng [[Nguyễn Văn Minh]], chỉ huy quân đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phái sư đoàn 5 tới giữ thị xã. Lực lượng này được tăng cường bởi 2 tiểu đoàn Biệt động quân (ngày 7 tháng 4) và 2 tiểu đoàn bộ binh (ngày 10 và 11 tháng 4).<ref>Ngô Quang Trưởng, ''The Easter offensive of 1972.'' Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1980. tr. 116.</ref> Sư đoàn 21 Bộ binh QLVNCH, trước đóng tại [[đồng bằng sông Cửu Long]], được gấp rút chuyển đến Chơn Thành để cùng với 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 Bộ binh QLVNCH làm lực lượng giải cứu. Toàn bộ lực lượng trong vùng lên đến ba lữ đoàn tăng cường, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng [[Lê Văn Hưng]], sư đoàn trưởng sư đoàn 5. Ngày 9 tháng 4, cầu Cần Lê bị phá. Đồng thời, bắt đầu từ ngày 9 tháng 4, QLVNCH mở cuộc hành quân "Toàn thắng - 72B" nhằm giải toả sức ép của đối phương tại vòng vây quanh khu vực thị xã.
 
Ngày [[13 tháng 4]], An Lộc bị bao vây và chịu một cuộc tấn công hiệp đồng giữa tăng-pháo và bộ đội Công Trường 9 (F9). Bảo vệ quân phòng thủ là những trận mưa [[rốc két|rốc-két]], [[bom]], và [[napan|napalm]] từ các máy bay của Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thị xã, các cố vấn Mỹ trở nên đóng vai trò cốt tử cho việc chỉ huy lực lượng phòng thủ<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>, họ tổ chức hỏa lực và hỗ trợ từ không lực, hậu cần, và thông tin tình báo. Trong khi đó, sự do dự trong phản công và sự phụ thuộc vào hỏa lực không quân của tướng Hưng, chỉ huy của lực lượng phòng thủ đã làm cho thiếu tá William Miller, cố vấn cao cấp người Mỹ, nhận xét rằng: "Ông ấy mệt mỏi - không kiên định - phi lý - dễ cáu - không nghe lời khuyên - và không tiếp cận được<ref>"He is tired - unstable - irrational - irritable - inadvisable - and unapproachable." Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>
 
Các cuộc tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn tiếp diễn và cuối cùng họ cũng vào được thị xã, chiến sân bay và thu hẹp vùng kiểm soát của QLVNCH xuống còn khoảng 1&nbsp;km². Trong cuộc tấn công ngày 21, xe tăng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vượt qua được tuyến phòng thủ nhưng lại bị diệt bởi các súng bắn tăng và trực thăng trang bị súng. Cú sốc ban đầu mà xe tăng gây ra cho lực lượng phòng thủ nhanh chóng mất hiệu quả, khi xe tăng tiến quá nhanh mà tùng thiết theo không kịp, đã trở thành mục tiêu của súng chống tăng<ref>Ngô Quang Trưởng, tr. 119.</ref> Những đợt khác lại là lực lượng tấn công lớn bằng bộ binh và hỏa lực mà không có tăng thiết giáp hỗ trợ. Sự thất bại trong hiệp đồng tác chiến này là một trong những điểm yếu của lực lượng tấn công, cái mà lực lượng phòng thủ nhanh chóng tận dụng. Tuy nhiên, bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng chiếm được gần hết khu vực phía Bắc của thị xã.
 
Bên cạnh hiệp đồng yếu, khó khăn chính cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là mưa bom đạn liên tục đổ xuống từ các cuộc không kích, gây ra thương vong lớn và gây khó khăn cho hậu cần. Sau thất bại của cuộc tấn công ngày 21 tháng 4, trận chiến chuyển thành một cuộc bao vây mà trong đó pháo binh Miền bắn phá An Lộc từ 1200 đến 2000 viên pháo cối mỗi ngày.<ref>Maj A.J.C. Lavalle, ''Air Power and the 1972 Spring Invasion''. Washington DC: Office of Air force History, 1985, tr. 86.</ref> An Lộc bị bao vây hoàn toàn và chỉ có thể được tiếp viện qua đường không, một tình thế càng khó khăn hơn do việc mất sân bay. Tuy nhiên, không quân đã tiếp viện được 448 phi vụ, chuyển 2693 tấn lương thực, thuốc men, và vũ khí đạn dược.<ref>Gen [[William W. Momyer]], ''The Vietnamese Air Force''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 50.</ref> Các trận tấn công sau đó cứ như một vòng luẩn quẩn: đột kích, tấn công thì bị trúng B52; đánh vào nhưng không chiếm được, rút ra rồi pháo kích vào.
 
Thời cơ đã mất, tương quan lực lượng đã thay đổi. ''Phía phòng ngự quân đông<ref name="NQT-phòng thủ">Cho đến ngày cuộc tiếp công bắt đầu, QLVNCH đã kịp củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ tại An Lộc. Tướng [[Nguyễn Văn Minh]], chỉ huy quân đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phái sư đoàn 5 tới giữ thị xã. Lực lượng này được tăng cường bởi 2 tiểu đoàn Biệt động quân (ngày 7 tháng 4) và 2 tiểu đoàn bộ binh (ngày 10 và 11 tháng 4).<br>Nguồn: Ngô Quang Trưởng, ''The Easter offensive of 1972.'' Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1980. tr. 116.</ref>, hoả lực mạnh, trong khi bên tiến công không có ưu thế nổi trội''. Cuộc tiến công thứ nhất vào An Lộc đã thất bại. Từ 15 tháng 4, QLVNCH tiếp tục cho đổ toàn bộ Lữ 1 Dù và Liên đoàn 81 Biệt cách dù xuống khu vực Núi Gió, lấy đó làm bàn đạp, đánh tập hậu lực lượng tấn công để mở đường vào thị xã; ngoài ra, Lữ 3 Dù từ Tây Nguyên cũng được đưa về Đông Nam Bộ. Theo đánh giá của tướng Hoàng Cầm thì lực lượng tập trung để cố thủ thị xã An Lộc đã lên tới năm chiến đoàn tăng cường.
 
Trong nửa cuối tháng 4, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến công chiếm lại Núi Gió và điểm cao 169, diệt phần lớn Tiểu đoàn 6 dù cùng ban chỉ huy Lữ 1 Dù. Lực lượng QLVNCH ở thị xã An Lộc vẫn quyết tâm cố thủ, quân tiếp viện trên đường 13 vẫn dồn lên nhằm giải toả An Lộc. Tại đường 13, các đơn vị F7 đã bao vây tiến công Chiến đoàn 7 ở Phù Lổ, diệt Chiến đoàn 52 ở cầu Cần Lê khi chiến đoàn này từ ngã ba Đồng Tâm rút chạy về hướng thị xã An Lộc, đẩy lùi cuộc tiến quân của Lữ 1 Dù từ Chơn Thành lên Ngọc Bầu, đánh bại cuộc hành quân mở đường của sư đoàn 21 ở bắc Chơn Thành, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 3 dù khi lực lượng này đổ quân xuống Tàu Ô. Tuy F7 vẫn chặn được quân tiếp viện của VNCH trên đường 13, nhưng lực lượng phòng không của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không đủ sức chặn viện binh đối phương cho An Lộc qua đường không.
 
Trước tình hình này, đầu tháng 5, Bộ chỉ huy Miền đánh giá tương quan lực lượng đã nghiêng về phía đối phương; QGP chưa tạo thế đủ mạnh để áp đảo; và không còn yếu tố bất ngờ nào nữa. Từ nhận định này, Bộ chỉ huy Miền chủ trương không tiếp tục tiến công An Lộc nữa mà chuyển sang bao vây cô lập, và đưa sư đoàn 5 xuống đồng bằng sông Cửu Long để thực hiện phần chống phá bình định theo kế hoạch chiến dịch. Tuy nhiên Bộ tư lệnh chiến dịch vẫn giữ quyết tâm tiến công thị xã An Lộc với lập luận rằng thất bại của đợt tiến công đầu "không phải vì địch mạnh mà do ta đánh chưa tốt".
Dòng 78:
Từ [[22 tháng 4]] đến [[10 tháng 5]], chiến sự ổn định ở thế trận mà báo ''[[Paris Match]]'' ví với "một [[trận Verdun|Verdun]] hay một [[trận Stalingrad|Stalingrad]]".<ref>''Paris Match'', 5 tháng 7 năm 1972.</ref>
 
Sáng ngày 11 tháng 5, cuộc tiến công đợtquy haimô tiếp theo vào thị xã An Lộc bắt đầu với một kế hoạch đã rút kinh nghiệm các đợt tiến công lần trước. Đến cuối ngày, địa bàn phòng thủ của QLVNCH rút xuống còn mỗi chiều khoảng 1&nbsp;km.<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995, tr. 472.</ref> Nhưng nỗ lực của họ lại thất bại trước hỏa lực dữ dội từ trên không, Hoa Kỳ ước tính Cáchbên mạngtấn công bị thương vong hơn 800 người.<ref>Momyer, General William W. ''The Vietnamese Air Force, 1951-1975, An Analysis of its Role in Combat''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 47.</ref> Trong suốt 25 tiếng đồng hồ bắt đầu từ 5:50 sáng, cứ 55 phút lại có một đợt máy bay [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]] rải thảm để hỗ trợ quân phòng thủ.<ref>Fulgham, David, Terrence Maitland, et al. ''South Vietnam on Trial: Mid-1970-1972''. Boston: Boston Publishing Company, 1984, tr. 153.</ref> Trong 3 ngày sau, mỗi khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chuẩn bị đội hình để tiếp tục tấn công, họ lại bị ném bom vào khu vực tập trung quân. Tuy nhiên các cuộc ném bom một chiều không ngăn được tốc độ tiến công của họ. Đỉnh cao của khốc liệt trong đợt tấn công là vào ngày 14 tháng 5, hệ thống phòng thủ bị đột kích và uy hiếp. Vượt qua mưa bom và phá được tuyến phòng thủ bên ngoài, Quânnhững Giảiquân phóngsố miềnít Namỏi Việtcủa NamQuân Giải phóng đánh thẳng vào trung tâm phòng thủ An Lộc. <blockquote>Thiếu tá [[Walt Ulmer]], cố vấn của Sư đoàn 5 QLVNCH, miêu tả: "''Họ cứ cố chất đống lên và chất đống lên. Họ đã lãng phí khủng khiếp nhiều binh lực''.<ref>"''they were simply trying to pile on and pile on and pile on. They frittered away an awful lot of manpower.''" Fulgham & Maitland, tr. 154.</ref> </blockquote>Ngày 15 tháng 5, đợt tấn công An Lộc lần thứ hai kết thúc thất bại.</blockquote>

Sư đoàn 21 QLVNCH đã được giao nhiệm vụ giải cứu, nhưng sư đoàn này không đến được An Lộc. Trong 3 tuần, sư đoàn này tiến chập chạp về phía Bắc dọc theo đường 13, nhưng bị kìm chân bởi lực lượng nhỏ hơn của F7 có nhiệm vụ chốt chặn con đường này.
 
===Giai đoạn 2 - Bao vây An Lộc và chốt chặn Đường 13===
{{chính|Trận An Lộc}}
Ngày 16 tháng 5, chiến dịch chuyển sang đợt hai.
 
Ngày 16 tháng 5, chiến dịch chuyển sang đợt hai. Cuộc tấn công cuối cùng diễn ra sau sinh nhật cố chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, quân phòng thủ lúc này chống cự một cách tuyệt vọng và quân tấn công đã suy yếu nên cũng bị đẩy lùi vào ngày 22-23/5.
Việc không đánh chiếm được thị xã An Lộc đã ảnh hưởng không tốt đến việc Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát triển chiến dịch theo kế hoạch ban đầu. Qua hai tháng chiến đấu quyết liệt, quân số, vũ khí đạn dược trở nên thiếu. Trung đoàn pháo chỉ còn 1/2 tổng số đầu khẩu, xe tăng còn ít lại thiếu xăng nên không dùng được.
 
Việc không đánh chiếm được thị xã An Lộc đã ảnh hưởng không tốt đến việc Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát triển chiến dịch theo kế hoạch ban đầu. Qua hai tháng chiến đấu quyết liệt, quân số, vũ khí đạn dược trở nên thiếu. Trung đoàn pháo chỉ còn 1/2 tổng số đầu khẩu, xe tăng còn lại rất ít, lạivừa thiếu xăng nên không dùng được.
 
Đến đây, thực hiện chỉ thị của Bộ chính trị, tướng [[Hoàng Văn Thái]] cùng Sư đoàn 5F5 và 1/3 lực lượng binh chủng chuyển xuống đồng bằng sông Cửu Long tham gia chiến dịch tổng hợp trên chiến trường Khu 8. F9 không tiếp tục tiến công An Lộc mà chỉ vây lỏng, F7 tiếp tục kìm chân và thu hút đối phương trên đường 13. Tất cả nhằm bảo vệ các vùng Lộc Ninh và [[Bù Dốp|Bù Đốp]] đã chiếm được và tạo thuận lợi cho địa phương Miền Đông phá bình định và phối hợp với chiến dịch tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long. Đại tá [[Hoàng Cầm (tướng)|Hoàng Cầm]] được giao vị trí tư lệnh kiêm chính ủy của Bộ tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ.
 
Tại An Lộc, đến ngày 12 tháng 6, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã rút hẳn ra ngoài thị xã và bị đẩy lui khỏi các khu vực lân cận, hơn 1000 thương binh QLVNCH được sơ tán.<ref>Lavalle, tr. 104.</ref> Các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút dần về phía bắc và phía tây. Ngày [[18 tháng 6]], chỉ huy Quân đoàn 3 QLVNCH tuyên bố An Lộc đã được giải tỏa. Theo số liệu của tướng Lâm Quang Thi, QLVNCH có 2.280 lính chết, 2.091 lính mất tích và 8.564 lính bị thương, khoảng 1000 dân thường cũng bị thương vong do đạn lạc khi 2 bên giao tranh; 2.091 lính mất tích trong nỗ lực giải vây thị trấn. Còn theo tài liệu của cục quân y Miền thì Quân Giải phóng miền Namthị trấn An Lộc tổn thất khoảng 2.000 tử trận hoặc mất tích, khoảng 5.000 bị thương. Số đạn pháo dự trữ bị thiếu hụt nghiêm trọng.
 
Tại mặt trận đường 13, theo kế hoạch, Trung đoàn 209, F7 chốt chặn tại đoạn Tàu Ô trên đường 13. Trung đoàn 14 bao vây Tân Khai, Trung đoàn 16 tạm rút ra củng cố. Hai trung đoàn này và Trung đoàn 205 độc lập của Miền sẽ làm nhiệm vụ cơ động tiến công, đánh địch vu hồi phía sau khu vực Tân Khai, Đức Vinh, và vận động tiến công khu vực phía trước, hỗ trợ E209 giữ vững khu vực chốt chặn Tàu Ô.
 
[[Tập tin:052.png|nhỏ|trái|Xác xe tăng quân giải phóng bị bắn cháy]]
Ngày 19 tháng 5, về phía QLVNCH điều hai trung đoàn 15 (sư đoàn 9) và trung đoàn 33 (sư đoàn 21) QLVNCH, được máy bay lên thẳng đổ xuống Tân Khai và thiết đoàn 9 (thiếu) theo đường bộ vòng qua Tàu Ô lên Tân Khai, lấy đây làm căn cứ xuất phát đánh lên An Lộc. Các trung đoàn E12, E14, E205 đã thực hiện vây hãm, diệt nhiều sinh lực đối phương, diệt toàn bộ các chi đoàn của thiết đoàn 9 (thiếu).
 
Ngày 21 tháng 5, lợi dụng sơ hở của E209 khi thay quân, Trung đoàn 31 (sư đoàn 21) QLVNCH, được tăng cường hai tiểu đoàn biệt động quân số 65 và 73, tiến công vào khu chốt bắc cống Ông Tề (cách Tàu Ô 500 mét về phía bắc). Chiến sự xảy ra ác liệt, hai bên giành giật nhau từng thước đất. Ban chỉ huy F7 phải đưa E14 từ Tân Khai xuống cống Ông Tề cùng với E209 phản công giành lại trận địa, khôi phục lại thế trận ban đầu.