Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phục Hưng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
dcsadfasdfasdf |
||
Dòng 2:
{{bài cùng tên}}
[[Tập tin:David von Michelangelo.jpg|nhỏ|Tác phẩm ''[[David (Michelangelo)|David]]'' của [[Michelangelo]], (Phòng trưng bày Galleria dell'Accademia, [[Florence]]) là một ví dụ cho đỉnh cao nghệ thuật Phục Hưng]]
Âm nhạc Bỉ trong trường phái Pháp-Bỉ trở nên thống trị nền âm nhạc châu Âu với các nhạc sĩ xuất sắc như [[Josquin des Prez]], [[Guillaume Dufay]], [[Johannes Ockeghem]]. Văn học không phải là một đặc sắc của Phục Hưng ở Flander, nhưng đây là quê hương của [[Erasmus]] "hoàng tử của chủ nghĩa nhân văn", nổi tiếng với các luận văn đả kích sâu cay tăng lữ và chủ nghĩa kinh viện.<ref>Latourette, Kenneth Scott. A History of Christianity. [[New York]]: Harper & Brothers, 1953, tr. 661.</ref>
=== Iberia===
Hàng 244 ⟶ 41:
Thuật ngữ Phục Hưng lần đầu tiên được sử dụng có tính hồi chỉ bởi nhà phê bình, nghệ sĩ [[Giorgio Vasari]] (1511-1574) trong cuốn sách "Đời sống của Nghệ sĩ" (1550). Trong cuốn sách này Vasari đã nỗ lực định nghĩa cái mà ông mô tả là sự đoạn tuyệt với tính man rợ của [[nghệ thuật Gothic]]: Nghệ thuật đã suy tàn với sự sụp đổ của [[Đế quốc La Mã]], và chỉ các nghệ sĩ [[Tuscana]], khởi đầu từ [[Cimabue]] (1240-1301) và [[Giotto]] (1267-1337) tiến trình suy tàn mới đảo ngược. Theo Vasari, nghệ thuật cổ đại là trung tâm của sự tái sinh nghệ thuật Ý<ref>{{Chú thích web|url=http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/defining.htm |tiêu đề=Defining the Renaissance, Open University |nhà xuất bản=Open.ac.uk |ngày truy cập=ngày 31 tháng 7 năm 2009}}</ref>.
Tuy nhiên, chỉ tới thế kỷ XIX từ tiếng Pháp ''Renaissance'' mới phổ biến rộng rãi để mô tả phong trào văn hóa tự ý thức dựa trên việc làm sống lại những hình mẫu La Mã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII. Phục Hưng lần đầu tiên được định nghĩa<ref name="mur">Murray, P. and Murray, L. (1963) ''The Art of the Renaissance''. London: [[Thames & Hudson]] (World of Art), p. 9. ISBN 978-0-500-20008-7
</ref> bởi nhà sử học Pháp [[Jules Michelet]] (1798-1874) trong công trình ''Histoire de France'' (Lịch sử nước Pháp) của ông. Đối với Michelet, Phục Hưng là một sự phát triển về khoa học hơn là văn hóa nghệ thuật. Ông khẳng định rằng nó bao trùm thời kỳ từ [[Christopher Columbus|Columbus]] tới [[Copernicus]] rồi [[Galileo]]; nghĩa là, từ cuối thế kỷ XV tới giữa thế kỷ XVII<ref name="Michelet">Michelet, Jules. History of France, trans. G. H. Smith (New York: D. Appleton, 1847)</ref>. Hơn nữa, Michelet phân biệt giữa cái mà ông gọi giữa tính chất "kỳ quái và gớm ghiếc" của thời Trung Cổ và các giá trị [[dân chủ]] mà ông, một người theo [[chủ nghĩa cộng hòa]] nhiệt thành, chọn như một đặc trưng của nó<ref name="brotton">Brotton, J., ''The Renaissance: A Very Short Introduction'', [[Oxford University Press|OUP]], 2006 ISBN 0-19-280163-5.</ref>. Một người dân tộc chủ nghĩa Pháp, Michelet cũng tìm cách tuyên bố Phục Hưng là một phong trào của Pháp<ref name="brotton" />. Trái lại, nhà sử học người [[Thụy Sĩ]] [[Jacob Burckhardt]] (1818–1897) trong cuốn ''Die Cultur der Renaissance in Italien'' (Về Văn hóa Phục Hưng ở Ý, 1860) mô tả Phục Hưng là giai đoạn giữa Giotto và Michelangelo ở Ý, tức là từ thế kỷ XIV tới giữa thế kỷ XVI. Ông nhìn thấy trong Phục Hưng sự xuất hiện của tinh thần hiện đại về [[chủ nghĩa cá nhân|cá nhân tính]], thứ đã bị đè nén ở thời Trung Đại<ref>Burckhardt, Jacob. ''[http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/burckhardt.html The Civilization of the Renaissance in Italy]'' (trans. S.G.C Middlemore, London, 1878)</ref>. Cuốn sách của ông có một ảnh hưởng đậm nét lên sự hình thành lối diễn giải ngày nay về Phục Hưng ở Ý<ref>Gay, Peter, ''Style in History'', New York: Basic Books, 1974.</ref>. Tuy nhiên, nhiều người cáo buộc Buckhardt là đã áp đặt một cái nhìn tuyến tính đơn giản <ref>Nguyên văn tiếng Anh là "Whiggist" ("kiểu Whig"), chỉ lối chép sử dựa trên quan niệm rằng lịch sử là một tiến trình tiến lên không ngừng hướng tới nền [[dân chủ tự do]] và nhà nước [[chủ nghĩa lập hiến|lập hiến]]. Xem tại [[:en:Whig history]]</ref> khi xem Phục Hưng là nguồn gốc của thế giới hiện đại<ref name="starn">{{chú thích tạp chí|author=Starn, Randolph|jstor=2650779|title= Renaissance Redux|journal=The American Historical Review|volume=103|issue=1 |year=1998|pages=122–124}}</ref>.
Hàng 254 ⟶ 52:
Có một cuộc tranh cãi kéo dài từ lâu về mức độ tiến bộ mà Phục Hưng đã tạo nên đối với văn hóa Trung Đại. Cả Michelet và Burckhardt đều nhiệt liệt mô tả tiến bộ của thời Phục Hưng hướng tới [[hiện đại]]. Burckhardt ví sự thay đổi như việc gỡ một tấm mạng, dệt từ tín ngưỡng, ảo tưởng, thiên kiến, khỏi mắt con người để nhìn sự vật rõ hơn.<ref>{{Chú thích web |họ=Burckhardt |tên=Jacob |lk tác giả=Jacob Burckhardt |url=http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/2-1.html |tiêu đề=The Civilization of the Renaissance in Italy|ngày truy cập=ngày 31 tháng 8 năm 2008}}</ref>
Trái lại, nhiều sử gia hiện nay chỉ ra rằng hầu hết những nhân tố xã hội tiêu cực gắn với thời Trung Đại - chẳng hạn đói nghèo, chiến tranh, khủng bố chính trị và tôn giáo - dường như đã tồi tệ hơn trong chính giai đoạn này. Rõ ràng Phục Hưng là thời đại của [[Niccolò Machiavelli|nền chính trị Machiavelli đầy thủ đoạn]], [[Chiến tranh tôn giáo Pháp|các cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu]], các Giáo hoàng hủ bại nhà [[Borgia]], và các cuộc [[săn phù thủy]] quy mô lớn thế kỷ XVI. Nhiều người sống trong thời Phục Hưng dường như không xem nó là "[[thời đại hoàng kim]]" như cách các nhà nghiên cứu thế kỷ XIX tưởng tượng, mà thay vào đó họ tỏ ra lo ngại về các vấn đề xã hội trên<ref>Sự nổi tiếng của [[Savonarola]] là một bằng chứng nổi bật cho sự bày tỏ lo ngại này. Các ví dụ khác bao gồm sự cấm đoán các bức tranh vẽ từ Florence của Vua [[Philip II của Tây Ban Nha]], được ghi nhận trong Edward L. Goldberg, "Spanish Values and Tuscan Painting", ''Renaissance Quarterly'' (1998) tr. 914</ref>. Điều đáng ngạc nhiên là, bất chấp như vậy, các nghệ sĩ, nhà văn, và các nhà bảo trợ tham gia vào các phong trào văn hóa liên quan tin rằng họ đang sống trong một kỷ nguyên mới-một sự cắt đứt rõ ràng với đêm trường Trung Cổ.<ref name="panofsky">[[Erwin Panofsky|Panofsky, Erwin]]. ''Renaissance and Renascences in Western Art'', New York: Harper and Row, 1960.</ref> Một số nhà [[chủ nghĩa duy vật lịch sử|sử học Marxist]] có xu hướng mô tả thời Phục Hưng bằng ngôn ngữ duy vật, giữ quan điểm rằng những thay đổi trong nghệ thuật, văn học, và triết học là một phần của khuynh hướng kinh tế chung từ [[chế độ phong kiến]] hướng tới [[chủ nghĩa tư bản]], hình thành một giai cấp [[tư sản]] với thời gian ư nhàn dành cho nghệ thuật<ref>[http://www.hull.ac.uk/renforum/v2no2/siar.htm Renaissance Forum] at [[Hull University]], Autumn 1997 (Retrieved on ngày 5 tháng 10 năm 2007)</ref>.
[[Johan Huizinga]] (1872-1945) ghi nhận sự tồn tại của Phục Hưng nhưng đặt vấn đề liệu nó có là một thay đổi tích cực. Trong cuốn "''The Waning of the Middle Ages''" (tạm dịch "''Sự tàn tạ của thời Trung Cổ''"), ông lập luận rằng Phục Hưng là một thời đại suy tàn từ [[Trung kỳ Trung Cổ|thời đỉnh cao Trung Đại]], phá hủy nhiều thành tựu quan trọng.<ref name="huizinga">[[Johan Huizinga|Huizanga, Johan]], ''[[The Waning of the Middle Ages]]'' (1919, trans. 1924)</ref> Ví dụ, [[tiếng Latinh]] đã tiến hóa mạnh mẽ từ thời cổ điển và vốn là một [[sinh ngữ]] sử dụng trong và ngoài nhà thờ. Sự ám ảnh Phục Hưng với tính thanh khiết cổ điển của nó đã chấm dứt những tiến hóa tiếp theo và tiếng Latin quay trở về dạng thức cổ điển của nó. Robert S. Lopez quả quyết rằng đó là một thời kỳ [[suy thoái kinh tế]] nặng nề.<ref>{{chú thích tạp chí|author=Lopez, Robert S., and Miskimin, Harry A.|title=The Economic Depression of the Renaissance|journal=Economic History Review|jstor=2591885|volume= 14 |year=1962|pages=408–26|doi=10.1111/j.1468-0289.1962.tb00059.x|issue=3}}</ref>, còn [[George Sarton]] và [[Lynn Thorndike]] lập luận rằng những tiến bộ khoa học có lẽ ít độc đáo hơn là như trước nay vẫn quan niệm.<ref>{{chú thích tạp chí|authorlink=Lynn Thorndike|author=Thorndike, Lynn|year=1943|title=Some Remarks on the Question of the Originality of the Renaissance|pages=49–74|journal=Journal of the History of Ideas|jstor=2707236|volume= 4|issue=1|doi=10.2307/2707236|last2=Johnson|first2=F. R.|last3=Kristeller|first3=P. O.|last4=Lockwood|first4=D. P.|last5=Thorndike|first5=L.}}</ref> Cuối cùng, [[Joan Kelly]] chỉ ra rằng Phục Hưng dẫn tới sự bất bình đẳng giới gia tăng.<ref>Kelly-Gadol, Joan. "Did Women Have a Renaissance?" ''Becoming Visible: Women in European History.'', Renate Bridenthal và Claudia Koonz. Boston: Houghton Mifflin, 1977.</ref>
|