Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Eminem”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 63:
}}
 
'''Marshall Bruce Mathers III''' (sinh ngày 17 tháng 10 năm 1972),<ref name="allmusicbio">{{Chú thích web|họ 1=Ankeny|tên 1=Jason|author2=Torreano, Bradley|tiêu đề=Eminem – Biography|url={{Allmusic|class=artist|id=p347307|pure_url=yes}}|nhà xuất bản=Allmusic|năm=2006|ngày truy cập=January 30, 2008}}</ref> nghệ danh '''Eminem''' (thường được cách điệu là '''EMINƎM'''), là một [[rapper]], [[người viết bài hát]], [[nhà sản xuất thu âm]][[diễn viên]] [[người Mỹ]].
 
Eminem là một trong những nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất Hoa Kỳ trong thập niên 2000. ''[[Rolling Stone]]'' xếp anh ở vị trí 83 trong danh sách 100 Nghệ sĩ Xuất sắc nhất Mọi thời đại và gọi anh là Ông vua nhạc Hip hop. Eminem có 10 album quán quân trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] và 5 đĩa đơn quán quân trên [[Billboard 100|''Billboard'' 100]].<ref>{{Chú thích web|họ 1=Caufield|tên 1=Keith|tiêu đề=Eminem Makes Chart History With Eighth Consecutive No. 1 Debut on Billboard 200|url=https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8078653/eminem-revival-makes-chart-history-with-eighth-consecutive-no-1-debut-on|website=Billboard}}</ref> Với 47,4 triệu album tại Hoa Kỳ và trên 220&nbsp;triệu đĩa trên bản thu trên toàn cầu, anh là một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất mọi thời đại]].
Dòng 113:
Vào năm 2005 Eminem xếp thứ 58 trong cuốn sách của [[Bernard Goldberg]], ''[[100 People Who Are Screwing Up America]]''.<ref>{{harv|Goldberg|2005|p=139}}</ref> Goldberg trích dẫn một mục báo vào năm 2001 bởi [[Bob Herbert]] của tờ ''[[The New York Times]]'', trong đó Herbert viết "Trong thế thế giới của Eminem, mọi phụ nữ đều là [[gái mại dâm|những mụ điếm]] và anh ta sẵn sàng hiếp và giết chết họ",<ref>{{cite news |last = Herbert|first = Bob|authorlink = Bob Herbert |title = In America; A Musical Betrayal|work=New York Times|date = January 29, 2001|url = http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9F03E4DA103FF93AA15752C0A9679C8B63&sec=&spon=&pagewanted=all|accessdate =October 6, 2007}}</ref> và bài hát "No One's Iller" trong ''[[Slim Shady EP]]'' làm ví dụ cho sự ghét nữ giới của rapper này.<ref>{{harvnb|Goldberg|2005|p=140}}</ref> Mùa hè năm đó Eminem thực hiện chuyến lưu diễn ba năm tại Hoa Kỳ khi Anger Management 3 Tour có sự tham gia của [[50 Cent]], [[G-Unit]], [[Lil Jon]], [[D12]], [[Obie Trice]] và [[The Alchemist (ca sĩ)|The Alchemist]]. Vào tháng 8 anh hủy bỏ đợt diễn tại châu Âu và thông báo rằng anh vừa bắt đầu quá trình phục hồi khỏi "sự lệ thuộc vào thuốc ngủ".<ref name="abc">{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008|url= http://www.abc.net.au/news/arts/theshallowend/200508/s1441976.htm|tiêu đề=Eminem in rehab|nhà xuất bản=Australian Broadcasting Corporation|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20080303011757/http://www.abc.net.au/news/arts/theshallowend/200508/s1441976.htm|ngày lưu trữ=March 3, 2008}}</ref> ''[[Curtain Call: The Hits]]'' phát hành 6 tháng 12 năm 2005 dưới tên hãng Aftermath Entertainment,<ref>[http://www.rapsearch.com/news/article/eminem-s-curtain-call-3-new-songs-and-bonus-live-performance]. RapSearch.Com. {{wayback|url=http://www.rapsearch.com/news/article/eminem-s-curtain-call-3-new-songs-and-bonus-live-performance |date=20090415083535 }}</ref> bán ra trong tuần đầu tiên gần 441.000 bản tại Hoa Kỳ, và là album thứ tư liên tiếp của Eminem đoạt ngôi quán quân trên ''Billboard'' Hot 200.<ref>Harris, Chris (14 tháng 12 năm 2005). [http://www.mtv.com/news/articles/1518100/20051214/eminem.jhtml "Eminem Scores Fourth No.1 Bow With Curtain Call"]. mtv.com. MTV Networks.</ref> Album được chứng nhận bạch kim hai lần từ [[RIAA]].
 
===2008–09: ''Relapse'' and ''Refill''===
[[File:Eminem at DJ hero party with d12.jpg|thumb|170px|left|Eminem biểu diễn cùng D12 tháng 5 năm 2009]]
Eminem xuất hiện trên kênh Shade 45 Sirius của anh vào tháng 9 năm 2008 với tuyên bố rằng mình đang trong quá trình tập trung vào việc sản xuất album mới.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/091908-trick-trick-says-eminem-is-bringing-slim-shady-back.html |tiêu đề=''RapBasement.com'' – Guess Who's Back, Back Again, Shady's Back, Tell A Friend (19/9/2008) |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=September 19, 2008 |ngày truy cập=May 24, 2010}}</ref> Interscope xác nhận album mới<ref>Jokesta (19/9/2008). [http://www.defsounds.com/news/Reps_confirm_new_eminem_album_may_hit_stores_4th_quarter Reps Confirm New Eminem Album May Hit Stores 4th Quarter] DefSounds. {{wayback|url=http://www.defsounds.com/news/Reps_confirm_new_eminem_album_may_hit_stores_4th_quarter |date=20080920093059 }}</ref> sẽ được phát hành vào mùa xuân 2009.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/266116/exclusive-eminem-talks-new-album-book |tiêu đề=Exclusive: Eminem Talks New Album, Book |work=Billboard |ngày tháng=September 14, 2009 |ngày truy cập=May 24, 2010 |url hỏng=yes |url lưu trữ= https://web.archive.org/20130523170020/http://www.billboard.com/articles/news/266116/exclusive-eminem-talks-new-album-book |ngày lưu trữ=May 23, 2013 }}</ref> Vào tháng 12 năm 2008 Eminem tiết lộ thêm một số chi tiết của album có tên ''Relapse'': "Tôi và Dre dang trở lại phòng thu như xưa. Dre sẽ sản xuất phần lớn các track trong 'Relapse'. Chúng tôi sẽ về với phong cách tinh quái trước kia&nbsp;... tôi chỉ có thể tiết lộ thế thôi."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/121208-eminem-talks-about-his-new-album-relapse-dre-to-produce-most-no-stan-part-2.html |tiêu đề=Eminem Gives Details On His Relapse |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=December 12, 2008 |ngày truy cập=May 24, 2010}}</ref>
 
Theo tin từ một cuộc họp báo vào tháng 3 năm 2009, Eminem sẽ ra mắt hai album mới. Đầu tiên là ''Relapse'' vào ngày 19 tháng 5. Đĩa đơn và video âm nhạc đầu tiên, "[[We Made You]]" được phát hành trước đó vào ngày 7 tháng 4.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/030509-eminem-will-release-two-new-albums-this-year-details-and-dates-included-read-here.html |tiêu đề=Eminem Relapses Twice; 2 NEW Albums Coming |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=March 5, 2009 |ngày truy cập=May 24, 2010}}</ref> Dù ''Relapse'' không quá thành công về daonh thu như các album trước, nó vẫn nhận được nhiều ý kiến phê bình tích cực. ''Relapse'' được chọn là một trong các album số một năm 2009, bán được 5 triệu bản trên toàn thế giới. Vào ngày 30 tháng 10 anh có buổi biểu diễn chính đầu tiên trong năm tại [[Voodoo Experience]] ở New Orleans.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman |tên 1=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1625294/20091102/eminem.jhtml |tiêu đề=– Eminem Rocks New Orleans' Voodoo Fest With First Full Concert of 2009 |work=MTV |ngày tháng=November 2, 2009 |ngày truy cập=May 24, 2010}}</ref> Vào ngày 19 tháng 11 Eminem thông báo trên mạng rằng ''Relapse: Refill'' sẽ được lên kệ ngày 21/ tháng 12. Album là bản tái phát hành của ''Relapse'' với 7 track mới, trong đó có "[[Forever (bài hát của Drake)|Forever]]". Eminem cho biết năm nay anh "muốn gửi tới cho người hâm mộ nhiều phong cách hơn như tôi đã dự định ban đầu" và hy vọng các bài hát trong ''The Refill'' sẽ giúp người hâm mộ bớt trống trải trước khi ''Relapse 2'' phát hành năm sau.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/eminem/48492|tiêu đề=Eminem announces 'Relapse: Refill' album featuring five unreleased songs|work=NME |nhà xuất bản=[[IPC Media]]|ngày tháng=November 20, 2009|ngày truy cập=August 21, 2011}}</ref>
 
===2010–11: ''Recovery'' và Bad Meets Evil===
Dòng 125:
''Billboard'' đưa tin ''Recovery'' là album bán chạy nhất năm 2010, giúp Eminem trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Nielsen SoundScan có 2 album bán chạy nhất năm (album còn lại là ''The Eminem Show'').<ref>Caulfield, Keith (5/11/2011). [http://www.billboard.com/articles/news/473767/eminems-recovery-is-2010s-best-selling-album-katy-perrys-california-gurls-top "Eminem's 'Recovery' Is 2010's Best-Selling Album; Katy Perry's 'California Gurls' Top Digital Song"]. Billboard.com. Prometheus Media Group.</ref> ''Recovery'' cũng là album kỹ thuật số bán chạy nhất lịch sử.<ref>{{Chú thích web|url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-eminem-bumps-off-gaga.html |tiêu đề=Chart Watch Extra: Eminem Bumps Off Gaga – Chart Watch |nhà xuất bản=New.music.yahoo.com |ngày tháng=March 4, 2011 |ngày truy cập=March 16, 2011|ngày lưu trữ = 2012-04-10|url lưu trữ = http://web.archive.org/web/20121004144444/http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-eminem-bumps-off-gaga.html }}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Not Afraid]]", được ra mắt ngày 29 tháng 4 và xuất phát trên ''Billboard'' Hot 100 ngay ở vị trí số một. "Not Afraid" được tiếp nối bằng "[[Love the Way You Lie]]", bài hát xuất phá ở vị trí thứ hai trước khi lên ngôi ở vị trí số một trên ''Billboard'' Hot 100.<ref>[{{BillboardURLbyName|artist=eminem|chart=Hot 100}} "Eminem Album & Song Chart History"]. Billboard. [[Nielsen Business Media]].</ref> Mặc dù "Love the Way You Lie" là đĩa đơn bán chạy nhất 2010 tại Anh Quốc, nó lại chưa từng lên vị trí số một tại đây (lần đầu kể từ năm 1969).<ref>Youngs, Ian (December 21, 2010). [http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-12039903 "Alex Da Kid: The Brit behind 2010's biggest hit"]. BBC.</ref> Dù còn một số phê bình vì sự thiếu ổn định, ''Recovery'' nhìn chung vẫn được đánh giá tích cực. {{As of|2010|11|21}}, Album có ba triệu bản được tiêu thụ tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Jacobs |tên 1=Allen |url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.13114 |tiêu đề=Hip Hop Album Sales: The Week Ending 11/21/2010 &#124; Get The Latest Hip Hop News, Rap News & Hip Hop Album Sales |nhà xuất bản=HipHopDX |ngày tháng=November 24, 2010 |ngày truy cập=November 25, 2010}}</ref>
 
Eminem góp mặt tại BET Awards 2010<ref name="Jacobs">{{Chú thích web|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.11506 |tiêu đề=Eminem to perform at 2010 BET awards|họ 1=Jacobs|tên 1=Allen|ngày truy cập=June 18, 2010}}</ref> với hai ca khúc "Not Afraid" và "[[Airplanes, Part II]]" với [[B.o.B]], và biểu diễn tại buổi hòa nhạc Activison E3. Vào tháng 6 Eminem và [[Jay-Z]] thông báo sẽ diễn chung tại Detroit và New York tại các buổi diễn mang tên [[The Home & Home Tour]]. Hai concert đầu tiên nhanh chóng cháy vé khiến ban tổ chức bổ sung thêm một show nữa tại mỗi thành phố.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.artistdirect.com/entertainment-news/article/eminem-and-jay-z-announce-more-home-and-home-dates/7314183|tiêu đề=Eminem And Jay-z Announce More "Home & Home" Dates}}</ref> BET gọi Eminem là rapper số một thế kỷ XXI.<ref>[http://www.bet.com/video/top10rappers/2010/eminem-extended-interview-10-1-230310.html "Top 10 Rappers | Top 10 Rappers: Eminem Extended Interview"]. BET.com. Truy cập 16/11/2010.</ref> Anh mở màn [[MTV Video Music Awards 2010]] vào ngày 12/ tháng 9 với "Not Afraid" và "Love the Way You Lie" với [[Rihanna]].<ref>[http://www.singersroom.com/news/6278/MTV-VMA-Recap-Stage-Rewind-with-Eminem-Rihanna-Taylor-Kanye-and-Bieber "MTV VMA Recap: Stage Rewind with Eminem, Rihanna, Taylor, Kanye and Bieber"]. 13/9/2010. Singersroom.com.</ref> Nhờ thành công của ''Recovery'' và Home & Home Tour, Eminem được MTV chọn là Hottest MC in the Game 2010<ref>Cantor, Paul (24/10/2010). [http://www.mtv.com/news/articles/1650705/20101024/eminem.jhtml "Eminem Is The Hottest MC In The Game!"]. MTV Networks.</ref> và Emcee của năm bởi tạp chí mạng HipHopDX.<ref>[http://www.hiphopdx.com/index/editorials/id.1633 The 2010 HipHopDX Year End Awards | Discussing Lil' Wayne, Drake & Many More Hip Hop Artists]. HipHopDX (13/12/2010).</ref> Anh và Rihanna sau đó hợp tác trong "[[Love the Way You Lie (Part II)]]", phân kế tiếp của đĩa đơn hit. Trong bản này, Rihanna là ca sĩ chính và hát bài hát từ góc nhìn của nhân vật nữ.<ref>[http://www.theboombox.com/2010/10/19/rihanna-eminem-love-the-way-you-lie-sequel "Rihanna and Eminem to make a Love the Way You Lie sequel"]. 19/10/2010. Theboombox.com</ref> Vào tháng 12 năm 2010, "Recovery" được ''Billboard'' xếp số một trong danh sách Top 25 Khoảnh khắc Âm nhạc 2010.<ref>[http://www.billboard.com/articles/news/948990/the-top-25-music-moments-of-2010 The Top 25 Music Moments of 2010] ''Billboard.com''. Truy cập 20/12/2010</ref> Anh cũng xuất hiện tại [[Giải Grammy 2011]] vào ngày 13 tháng 2 khi thể hiện "Love the Way You Lie (Part II)" cùng Rihanna và [[Adam Levine]] cũng như "[[I Need a Doctor]]" với Dr. Dre và [[Skylar Grey]].<ref>{{Chú thích web|họ 1=Semigran |tên 1=Aly |url= http://www.mtv.com/news/articles/1657911/skylar-gray-grammys.jhtml |tiêu đề=Skylar Grey Breaks Out With Dre, Eminem Grammy Performance – Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=February 14, 2011 |ngày truy cập=February 21, 2011}}</ref> Cùng tháng đó "[[Space Bound]]" được thông báo là đĩa đơn thứ tư trong ''Recovery''.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Rodriguez |tên 1=Jayson |url=http://www.mtv.com/news/articles/1658323/eminem-sasha-grey-space-bound.jhtml |tiêu đề=Eminem Shoots 'Space Bound' Video With Porn Star Sasha Grey |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=February 18, 2011 |ngày truy cập=February 27, 2011}}</ref>
 
Vào năm 2010, Eminem tái hợp với [[Royce da 5'9"]] với tên [[Bad Meets Evil]] và hợp tác phát hành một [[EP]] mới. Họ từng hợp tác với tên này vào năm 1999. EP có tên ''[[Hell: The Sequel]]'' được phát hành tháng 6 năm 2011.<ref>[http://www.mtv.com/news/articles/1662592/eminem-royce-da-5-9-bad-meets-evil.jhtml Eminem And Royce Da 5'9" To Drop Bad Meets Evil EP] MTV.com (25/4/2011). Truy cập 26/4/2011.</ref> Eminem cũng góp mặt trong bài "[[Writer's Block (bài hát của Royce da 5'9")|Writer's Block]]" của Royce da 5'9", bài hát phát hành ngày 8 tháng 4 năm 2011.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/04/08/new-music-royce-da-59-f-eminem-writers-block/ |tiêu đề=New Music: Royce Da 5'9" f/ Eminem – 'Writer's Block' |nhà xuất bản=Rap-Up.com |ngày truy cập=June 14, 2011}}</ref> Vào ngày 3 tháng 5 họ phát hành đĩa đơn chủ đề của EP có tên "[[Fast Lane (bài hát của Bad Meets Evil)|Fast Lane]]", cùng một video âm nhạc.<ref>{{youtube|rJOsjP33nF4|'Fast Lane' by Bad Meets Evil (Official music video)}}</ref> Trước đó vào tháng 3, hai album ''The Eminem Show'' và ''The Marshall Mathers LP'' đạt được chứng nhận kim cương từ RIAA. Eminem là rapper đầu tiên có hai album chứng nhận kim cương.<ref>[http://www.rapbasement.com/eminem/042611-rapper-eminem-has-two-albums-get-diamond-status-details-here-click-now.html Eminem Has 2 Albums Go Diamond] RapBasement.com (26/4/2011).</ref> Bad Meets Evil phát hành đĩa đơn tiếp theo, "[[Lighters (bài hát)|Lighters]]" vào ngày 6 tháng 7 và ra mắt video vào tháng 8.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.allaccess.com/top40-mainstream/future-releases|tiêu đề=Top 40/M Future Releases|nhà xuất bản=All Access Music Group|url lưu trữ=http://www.webcitation.org/5ztubDCg2|ngày lưu trữ=July 3, 2011|ngày truy cập=September 25, 2011}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://idolator.com/5983402/eminem-bruno-mars-lighters-video|tên 1=Becky|họ 1=Bain|tiêu đề=Eminem And Royce Da 5′9" Pair Up With Bruno Mars For "Lighters" Video|nhà xuất bản=Idolator|ngày tháng=August 22, 2011|ngày truy cập=August 22, 2011}}</ref> Vào ngày 6 tháng 8, Eminem biểu diễn một số bài hát trong sự nghiệp của anh tại [[Lollapalooza]] với các nghệ sĩ góp mặt trong mỗi bài hát đó.<ref>{{cite news|url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2011-08-07-lollapalooza-2011-eminem_n.htm|first=Piet|last=Levy|title=Lollapalooza 2011: Eminem rules Day Two|work=USA Today|publisher=[[Gannett Company]]|date=August 7, 2011|accessdate=August 9, 2011}}</ref>
Dòng 135:
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, chủ tịch Shady Records và quản lý của Eminem là ông [[Paul Rosenberg (giám đốc âm nhạc)|Paul Rosenberg]] thông album thứ 8 của rapper này sẽ ra sau ngày [[Memorial Day]]. Rosenberg cho biết công ty "thực sự mong chờ phát hành album mới của Eminem vào năm 2013. Anh ấy đã làm album được một thời gian rồi".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/eminems-next-album-coming-post-memorial-day-20130208 |tiêu đề=Eminem's Next Album Coming 'Post-Memorial Day' 2013 &#124; Music News |nhà xuất bản=Rolling Stone |ngày tháng=February 8, 2013 |ngày truy cập=April 17, 2014}}</ref> [[No I.D.]] được xác nhận là một trong những người sản xuất album này.<ref name="NoIDCollabo">{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1693542/eminem-no-id-next-album.jhtml |tiêu đề=Eminem To Hit The Studio With No I.D. - Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV.com |ngày tháng=September 10, 2012 |ngày truy cập=February 10, 2013}}</ref>
 
Vào ngày 14 tháng 8 bài hát "[[Survival (bài hát của Eminem)|Survival]]" của Em hợp tác với Liz Rodrigues và được [[DJ Khalil]] sản xuất, xuất hiện trong video giới thiệu video game ''[[Call of Duty: Ghosts]]''. Tại [[MTV Video Music Awards 2013]], album được thông báo sẽ mang tên ''The Marshall Mathers LP 2'' (nối tiếp ''The Marshall Mathers LP'') và dự kiến ra mắt ngày 5/ tháng 11.<ref name="HUFF POST">{{Chú thích web|url=http://www.huffingtonpost.com/2013/08/25/mmlp2-eminem-new-album-_n_3814784.html?utm_hp_ref=entertainment|tiêu đề=Eminem's 'MMLP2' Album Announced At VMAs|ngày tháng=August 25, 2013|nhà xuất bản=huffingtonpost.com|ngày truy cập=August 26, 2013}}</ref>
 
[[File:Eminem Lollapalooza 2014 Chicago.jpg|thumb|left|alt=Eminem onstate in T-shirt, shorts and baseball cap|Mathers tại [[Lollapalooza]] 2014 ở Chicago]]
Dòng 146:
Vào ngày 3 tháng 11 Eminem là người đầu tiên nhận giải Nghệ sĩ của năm của [[YouTube Music Awards]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.spin.com/articles/youtube-music-awards-winners-list-macklemore-ryan-lewis/|tiêu đề=YouTube Music Awards: A Charming Mess With Eminem, Macklemore, M.I.A., and More|tác giả 1=Chris Martins|ngày truy cập=January 3, 2014}}</ref> giành giải Global Icon Award tại [[MTV EMA]] 2013.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.26194/title.eminem-wins-global-icon-award-at-2013-mtv-ema-music-awards|tiêu đề=Eminem Wins "Global Icon" Award At 2013 MTV EMA Music Awards|tác giả 1=Soren Baker|ngày truy cập=January 3, 2014}}</ref>
 
===2014–nay2014–2016: ''Shady XV'' và ''Southpaw''===
[[File:Eminem live at D.C. 2014.jpg|thumb|Eminem biểu diễn tại Concert for Valor ở Washington, D.C. năm 2014]]
Vào [[tháng 6]] năm [[2014]] Eminem và Rosenberg sử dụng [[hashtag]] #SHADYXV trên các trang mạng xã hội, trong khi Eminem mặc chiếc áo phông với hashtag đó trên sân khấu. Theo như thông cáo báo chí ngày 25 tháng 8 trên trang của Eminem, hashtag này là tên của album tổng hợp của hãng Shady Records: ''[[Shady XV]]''. Cùng ngày, đĩa đơn đầu tiên trong album ("[[Guts Over Fear]]", hợp tác với [[Sia Furler]])<ref>{{Chú thích web|url= http://www.billboard.com/articles/news/6229233/eminem-announces-shady-xv-compilation-with-new-track-guts-over-fear|tiêu đề=Eminem Announces 'Shady XV' Compilation With New Track 'Guts Over Fear'|nhà xuất bản=''Billboard''|tác giả 1=Gallo, Phil|ngày tháng=August 25, 2014|ngày truy cập=August 25, 2014}}</ref> được ra mắt trong khi danh sách track của album được thông báo ngày 29 tháng 10.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=SHADYXV Tracklist Revealed|url= http://www.eminem.com/news/shadyxv-tracklist-revealed-new-merch-colorways-released|website=www.eminem.com|ngày truy cập=November 1, 2014|ref=SHADYXV Tracklist Revealed}}</ref> Shady Records cho ra một cypher (một dạng [[rap chiến]] freestyle) để quảng bá album, trong đó Eminem thực hiện một đoạn freestyle dài 7 phút. "[[Detroit Vs. Everybody]]" (đĩa đơn thứ hai từ album), với Eminem, Dej Loaf, Royce da 5'9", [[Danny Brown (rapper)|Danny Brown]], [[Big Sean]] và [[Trick-Trick]], được phát hành ngày 11 tháng 11.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Grow|tên 1=Kory|tiêu đề=Hear Eminem's Love Letter to His Hometown, 'Detroit Vs. Everybody'|url=http://www.rollingstone.com/music/news/hear-eminems-love-letter-to-his-hometown-detroit-vs-everybody-20141111|website=Rolling Stone|ngày truy cập=November 14, 2014}}</ref> ''Shady XV'', được phát hành ngày 24 tháng 11 trong tuần lễ [[Thứ Sáu Đen (mua sắm)|Black Friday]],<ref>{{Chú thích web|họ 1=Rosenberg|tên 1=Paul|tiêu đề=SHADYXV out 11/24|url= https://twitter.com/rosenberg/status/504095948776435714 | nhà xuất bản=[[Twitter]]|ngày truy cập=October 21, 2014}}</ref> bao gồm một đĩa các bài đình đám nhất và một đĩa các bài hát mới của các nghệ sĩ thuộc Shady Records như [[D12]], Slaughterhouse, Bad Meets Evil và [[Yelawolf]]. Album ra ở vị trí #3 trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]], thu về trong tuần đầu tiên tại Hoa Kỳ 138.000 bản.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Tardio |tên 1=Andres |url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.31622/title.hip-hop-album-sales-eminem-rick-ross-beyonce|tiêu đề=Hip Hop Album Sales: Eminem, Rick Ross, Beyonce |nhà xuất bản=HipHop DX |ngày tháng=December 3, 2014 |ngày truy cập=December 3, 2014}}</ref>
Dòng 156:
Eminem là [[giám đốc sản xuất]] nhạc phim của bộ phim thể thao [[Southpaw (phim)|Southpaw]], cùng [[Shady Records]]. Đĩa đơn đầu tiên trong album nhạc phim có tên "[[Phenomenal (bài hát)|Phenomenal]]" được phát hành ngày 2 tháng 6 năm 2015.<ref>[http://www.nme.com/news/eminem/85642 Eminem to release new song on 'Southpaw' soundtrack | NME.COM]</ref> Một single nữa, "[[Kings Never Die (bài hát)|Kings Never Die]]" của Eminem hợp tác với [[Gwen Stefani]], được phát hành ngày 10 tháng 7 năm 2015 trên kênh [[YouTube]] của Eminem.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Eminem Kings Never Die|url=https://www.youtube.com/watch?v=7YAVn466YBc|website=Youtube|ngày truy cập=July 10, 2015}}</ref>
 
=== 2016–nay: ''Revival'' và ''Kamikaze'' ===
Ngày [[15 tháng 12]] năm [[2017]], Eminem chính thức ra mắt [[album phòng thu]] thứ chín mang tên "Revive"''Revival''.
 
Ngày [[31 tháng 8]] năm [[2018]], Eminem chính thức ra mắt [[album phòng thu]] thứ mười mang tên "''Kamikaze"''.
 
==Các dự án khác==
 
===Shady Records và D12===
 
====Shady Records====
Sau thành công của Eminem, Interscope đề nghị với Eminem về việc thành lập hãng đĩa riêng của anh; Anh và Paul Rosenberg thành lập Shady Records vào cuối năm 1999. Eminem ký hợp đồng với D12, cùng rapper [[Obie Trice]] và ký tiếp với [[50 Cent]] trong một dự án liên doanh với hãng Aftermath của Dr. Dre năm 2002. Vào năm 2003, Eminem và Dr. Dre kết nạp rapper người [[Atlanta]] là [[Stat Quo]] vào hàng ngũ Shady-Aftermath. [[DJ Green Lantern]], DJ cũ của Eminem gia nhập Shady Records đến khi tranh cãi liên quan tới sự bất hòa giữa 50 Cent và [[Jadakiss]] buộc anh phải ra đi. Vào năm 2005 Eminem ký hợp đồng với một rapper Atlanta nữa, Bobby Creekwater, rapper tới từ Bờ Tây, [[Cashis]].<ref name="Britannica">{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008|url=http://www.britannica.com/eb/article-9438449/Eminem|tiêu đề=Eminem |nhà xuất bản=[[Encyclopædia Britannica]]}}</ref>
 
Ngày 5/ tháng 12/ năm 2006, album tổng hợp ''[[Eminem Presents: The Re-Up]]'' được phát hành dưới tên Shady Records. Dự án bắt đầu dưới dạng [[mixtape]], nhưng khi Eminem tìm thấy chất liệu nhạc tốt hơn dự kiến thì anh đổi ý sang ra album. ''The Re-Up'' được dành cho việc giới thiệu Stat Quo, Cashis và Bobby Creekwater.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008|url=http://stores.musictoday.com/store/dept.asp?band_id=82&dept_id=1305&sfid=2|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20080411222742/http://stores.musictoday.com/store/dept.asp?band_id=82&dept_id=1305&sfid=2|ngày lưu trữ=April 11, 2008| tiêu đề = Re-Up CD|nhà xuất bản=Encore}}</ref>
 
====D12====
Khi còn đang thu âm ''Infinite'', Eminem, Proof và Kon Artis lập thành một nhóm rapper mà giờ được biết tới với tên D12, viết tắt cho "Detroit Twelve" hay "Dirty Dozen", những người biểu diễn theo phong cách giống [[Wu-Tang Clan]].<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=19}}</ref> Vào năm 2001 album đầu tay của D12, ''[[Devil's Night (album)|Devil's Night]]'', được phát hành.<ref name="d12 all music">{{Chú thích web|họ 1=Smith|tên 1=Kerry|tiêu đề=D12 > Biography|url={{Allmusic|class=artist|id=p457773|pure_url=yes}}|nhà xuất bản=Allmusic| ngày tháng=May 2006 |ngày truy cập=May 23, 2008}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên từ album là "[[Shit on You]]", kế đến là "[[Purple Pills]]" (bài hát về việc dùng ma túy để giải khuây) và "[[Fight Music]]". "Purple Pills" sau đó phải viết lại lời khi phát trên radio và TV, loại bỏ tất cả những câu từ về ma túy và tình dục, và đổi tên là "Purple Hills".
 
Hàng 199 ⟶ 198:
Eminem sử dụng các thân thế khác (''alter ego'') trong các bài hát đối với các phong cách và chủ đề rap khác nhau. Thân thế nổi tiếng nhất là Slim Shady, lần đầu xuất hiện trong EP ''Slim Shady''. Những bài hát trong thân thế này thường mạnh bạo và u ám, cùng một nét hài hước.<ref>{{cite news| accessdate=March 7, 2011|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1002562,00.html|title=The Three Faces of Eminem|work=TIME |first=Josh|last=Tyrangiel|date=June 3, 2002}}</ref> Eminem bỏ hình tượng Slim Shady trong ''Recovery'' vì anh cho rằng nó không hợp với dòng chảy của album.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=March 7, 2011|url=http://www.mtv.com/news/articles/1641819/eminem-slim-shady-wasnt-right-recovery.jhtml|tiêu đề=Eminem Says 'Slim Shady' Wasn't Right for Recovery|nhà xuất bản=MTV News}}</ref> Một nhân vật nữa là Ken Kaniff, một người đồng tính hay chế giễu bài hát của Eminem. Ken được sáng tạo và thể hiện bởi rapper đồng hương Detroit, Aristotle, trong ''Slim Shady LP'', trong đó Kaniff gọi điện chơi khăm Eminem. Một cuộc tranh cãi sau khi album ra mắt dẫn tới việc Eminem sử dụng nhân vật Kaniff trong ''Marshall Mathers'' và các album sau này (ngoại trừ ''Encore'' và ''Recovery'').
 
==Đời tư cá nhân==
 
===Gia đình===
Hàng 205 ⟶ 204:
 
===Rắc rối pháp lý===
Vào năm 1999 mẹ Eminem đòi anh gần 10&nbsp;triệu đô la vì xúc phạm bà trong ''The Slim Shady LP'', nhưng chỉ nhận được khoảng 1 nghìn 600 đô la tiền bồi thường thiệt hại vào năm 2001.<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=69}}</ref> Eminem bị bắt giữ ngày 3/ tháng 6/ năm 2000 trong một cuộc ẩu đả với Douglas Dail tại một cửa hàng thiết bị âm thanh xe hơi tại [[Royal Oak, Michigan]], khi anh rút ra một khẩu súng chưa nạp đạn và chĩa súng xuống đất. Một ngày sau, tại [[Warren, Michigan]], anh bị bắt tiếp vì hành hung bảo vệ quán bar John Guerrera ở khu đỗ xe của quán Hot Rock Café sau khi nhìn thấy Guerrera hôn vợ mình.<ref name="AOZ">{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008|url=http://www.the411online.com/news18.html|tiêu đề=Tour tickets available for a price |nhà xuất bản=The 411 Online}}</ref><ref name="personal life"/> Eminem tái hiện lại việc tấn công Guerrera trong "The Kiss (Skit)" trong album ''The Eminem Show''. Eminem, bị buộc tội mang vũ khí giấu kín và hành hung, nhận tội và chịu hai năm [[quản chế]]; vụ hành hung Guerrera được bỏ nhờ dàn xếp giảm nhẹ tội.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008|url=http://www.mtv.com/news/articles/1442656/20010410/eminem.jhtml|tiêu đề=Eminem Gets Two Years' Probation In Weapon Case|nhà xuất bản=MTV}}</ref> Vào ngày 7/ tháng 7/ năm 2000 Kim có ý định tự sát khi rạch cổ tay,<ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/827159.stm |title=Eminem wife's suicide bid|publisher=BBC News |date=July 10, 2000 |accessdate=June 14, 2011}}</ref> và sau đó kiện Eminem vì làm nhục cô sau khi anh tưởng tượng ra một cái chết thảm khốc của cô trong "[[Kim (bài hát)|Kim]]".<ref name="personal life">{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/4882092.stm |title=Entertainment &#124; Eminem and Kim to divorce again |publisher=BBC News |date=April 6, 2006 |accessdate=April 17, 2014}}</ref>
 
Vào ngày 26/ tháng 10/ năm 2000, khi Eminem chuẩn bị biểu diễn tại [[Rogers Centre|Skydome]] ở Toronto thì trưởng tư pháp tỉnh [[Ontario]], [[Jim Flaherty]], tuyên bố rằng Eminem sẽ không được phép nhập cảnh vào Canada. Ông nói "cá nhân tôi không muốn những ai tới Canada mà lại ủng hộ bạo hành phụ nữ". Flaherty ông thấy "ghê tởm" khi đọc lời của "Kill You" với những dòng như "Slut, you think I won't choke no whore / Till the vocal cords don't work in her throat no more?" Mặc dù phản ứng của công chúng đối với Flaherty nhìn chung là tiêu cực vì ngăn không cho Eminem vào Canada được coi là liên quan tới vấn đề [[tự do ngôn luận]], nghị sĩ đảng [[Đảng Tự do Canada|Tự do]] tỉnh Ontario Michael Bryant cho rằng rapper này phải bị khởi tố vì tội thù ghét, cụ thể là ủng hộ bạo hành phụ nữ trong lời bài hát của anh ta.<ref name = "B">{{cite news|title = Ontario wants rap star banned|first = Richard|last = Mackie|author2 = Marissa Nelson|newspaper=Globe and Mail |location = Toronto|date = October 26, 2000|pages = A1, A4|accessdate =May 27, 2009}}</ref> Robert Everett-Green viết trong bài xã luận cho tờ ''[[The Globe and Mail]]'', "Chướng tai gai mắt là từ để mô tả công việc của Eminem",<ref name = "A">{{cite news|title = Bad rap for a rapper|first = Robert|last = Everett-Green|type = newspaper|work=Globe and Mail |location = Toronto|date = October 26, 2000|page = A25|accessdate =May 27, 2009}}</ref> trong khi buổi biểu diễn của rapper này tại Toronto vẫn diễn ra bình thường.<ref name = "D">{{cite news | title = Eminem to play despite Canadian officials concerns|first = Jon|last = Zahlaway |work=LiveDaily|date = October 26, 2000|url=http://www.livedaily.com/news/2069.html|accessdate =May 27, 2009|archiveurl= https://web.archive.org/web/20001202041600/http://livedaily.com/news/2069.html|archivedate=2000-12-02}}</ref>
 
Nhân viên vệ sinh DeAngelo Bailey đòi Eminem 1 triệu đô vào năm 2001, buộc tội anh vì xâm phạm quyền riêng tư khi đã đăng thông tin sai về anh ta trong bài "Brain Damage", bài hát miêu tả Bailey là kẻ đầu gấu trường. Dù Bailey thừa nhận đôi xử không phải với Eminem ở trường, anh nói mình chỉ "đụng chạm" và "đẩy nhẹ" cậu ta. Vụ kiện bị bác bỏ vào ngày 20/ tháng 10/ năm 2003; thẩm phán [[Deborah Servitto]], người đọc rap phần phán quyết, khẳng định rằng lời rap chỉ đơn thuần là phóng đại lên.<ref>{{cite news|last1=Dansby|first1=Andrew|title=Judge Drops Eminem Rap|url=http://www.rollingstone.com/music/news/judge-drops-eminem-rap-20031020|accessdate=August 12, 2015|work=Rolling Stone|date=October 20, 2003}}</ref>
 
Ngày 28/ tháng 6/ năm 2001, Eminem bị kết án một năm quản chế và lao động công ích đồng thời bị phạt gần 2.000 đô vì cáo buộc về vũ khí xuất phát từ cuộc tranh cãi với nhân viên của [[Psychopathic Records]].<ref>{{cite news|last=van Horn|first=Teri|title=Eminem Gets Probation|url= http://www.mtv.com/news/articles/1444843/20010628/eminem.jhtml|publisher=[[MTV News]]|date=June 28, 2001|accessdate=January 30, 2008}}</ref>
 
Ngày 31/ tháng 3/ năm 2002, Nhạc công piano [[jazz]] [[Jacques Loussier]] đâm đơn kiện đòi 10&nbsp;triệu đô từ Eminem và Dr. Dre, khi cho rằng nhíp điệu trong bài "Kill You" là từ nhạc phẩm "Pulsion" của ông.<ref>{{cite news |url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/1904507.stm|title=Eminem sued by jazz star |accessdate=December 24, 2008 |publisher=BBC News |date=March 31, 2002}}</ref> Loussier yêu cầu dừng việc bán ''The Marshall Mathers LP'' và bất kì bản copy nào còn bày bán phải bị tiêu hủy. Một phiên tòa được dự kiến bắt đầu vào tháng 6/ năm 2004, và vụ việc được giải quyết sau đó.<ref>{{cite news | first = Robin | last = Finn | title = A Defender of the Controversial, and Now of Imus | date = May 25, 2007 | work=New York Times | accessdate =May 25, 2010}}</ref>
 
Vào ngày 8 tháng 12 năm 2003, [[Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ]] thông báo họ đang "xem xét" các cáo buộc Eminem đã đe dọa Tổng thống Hoa Kỳ.<ref>{{cite news| title=Secret Service checks Eminem's 'dead president' lyrics|url= http://edition.cnn.com/2003/SHOWBIZ/Music/12/05/eminem.lyrics/|publisher=CNN|date=December 6, 2003|accessdate=February 1, 2008}}</ref> Nguyên nhân là từ lời bài hát "We As Americans" ("Fuck money / I don't rap for [[Dead Presidents (bài hát)|dead presidents]] / I'd rather see the president dead / It's never been said, but I set precedents"). Vụ việc sau đó được chiếu trong video bài hát "[[Mosh (bài hát)|Mosh]]", với hình ảnh một mẩu báo cắt ra được gắn trên bức tường đầy các bài báo về nhưng điều không may trong sự nghiệp của Bush. Bài hát sau đó được phát hành trong CD với bản deluxe của ''Encore'' với lời được thay đổi đi.<ref name="encore amg">{{Chú thích web|họ 1=Erlewine|tên 1= Stephen Thomas|lk tác giả 1=Stephen Thomas Erlewine|tiêu đề="Encore" – Overview |url={{Allmusic|class=album|id=r717546|pure_url= yes}} |nhà xuất bản=Allmusic |năm=2004 |ngày truy cập=September 17, 2007}}</ref>
Hàng 241 ⟶ 240:
Anh là nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất từ năm 2000 tới năm 2010 theo [[Nielsen SoundScan]] Hoa Kỳ;<ref>{{Chú thích web|họ 1=Montgomery |tên 1=James |url= http://www.mtv.com/news/articles/1627833/20091208/eminem.jhtml |tiêu đề=Eminem Is The Best-Selling Artist Of The Decade |work=MTV News |ngày tháng=December 8, 2009 |ngày truy cập=May 21, 2010}}</ref> với ước tính số album tiêu thụ trên toàn thế giới là 172&nbsp;triệu bản, Eminem là một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất thế giới]].<ref name="Turnbull">{{cite news|url= https://independentaustralia.net/art/art-display/new-music-through-old-ears-shady-queen-mark-guy,7211|title=New Music Through Old Ears: Shady Queen Mark Guy|first=John|last=Turnbull|publisher=Independent Australia|date=December 20, 2014|accessdate=July 27, 2015}}</ref> Anh có trên 6 tỉ lượt xem trên kênh [[Vevo]] YouTube.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/user/EminemVEVO/about |tiêu đề=Eminem Vevo channel views |work=Youtube |ngày truy cập=2016-05-31}}</ref> Vào năm 2010 âm nhạc của Eminem thu hút 94&nbsp;triệu lượt stream (nhiều hơn bất kì nghệ sĩ nào),<ref name="BW-2010YE">{{Chú thích web |url=http://www.businesswire.com/news/home/20110106006565/en/Nielsen-Company-Billboard%E2%80%99s-2010-Music-Industry-Report |tiêu đề=The Nielsen Company & Billboard's 2010 Music Industry Report |nhà xuất bản=Business Wire |ngày tháng=January 6, 2011 |ngày truy cập=January 8, 2011}}</ref> và vào tháng 5 năm 2014 [[Spotify]] nêu tên anh với tư cách là nghệ sĩ được phát nhiều nhất mọi thời đại. "Love the Way You Lie" (11× bạch kim) và "Not Afraid" (10× bạch kim) là hai bài hát được chứng nhận kim cương từ RIAA giúp anh trở thành nghệ sĩ đàu tiên tại Hoa Kỳ có hai đĩa đơn được chứng nhận này tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Baker|tên 1=Soren|tiêu đề=Eminem First Artist With Two Digital Diamond Awards|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.29180/title.eminem-first-artist-with-two-digital-diamond-awards|website=HipHop DX|nhà xuất bản=Cheri Media Group|ngày truy cập=June 10, 2014}}</ref> Vào tháng 6 năm 2014, Eminem là nghệ sĩ nam bán đĩa chạy thứ hai kỉ nguyên [[Nielsen SoundScan]], nghệ sĩ bán đĩa chạy thứ 6 tại Hoa Kỳ và là nghệ sĩ hip hop bán đĩa chạy nhất, với 45,1 triệu album và 42 triệu bài hát (trong đó có 31&nbsp;triệu chứng nhận đĩa đơn kĩ thuật số).<ref>{{Chú thích web|tên 1= Paul |họ 1=Grein|tiêu đề=Chart Watch: 50 Cent’s Sales Slide|url=https://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-50-cent-sales-slide-002425382.html|nhà xuất bản=[[Yahoo!]]|ngày tháng=June 11, 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Business Wire |url=http://www.businesswire.com/news/home/20120105005547/en/Nielsen-Company-Billboard%E2%80%99s-2011-Music-Industry-Report |tiêu đề=The Nielsen Company & Billboard's 2011 Music Industry Report |nhà xuất bản=Business Wire |ngày tháng=January 5, 2012 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề = Eminem becomes first double Diamond Digital winner | url = http://www.rte.ie/ten/news/2014/0610/622925-eminem-becomes-first-double-diamond-digital-winner/ |ngày tháng= June 11, 2014}}</ref><ref name="new.music.yahoo.com">{{Chú thích web|họ 1=Grein |tên 1=Paul|url= http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/74426/week-ending-oct-23-2011-albums-casting-crowns-not-crowned/ |tiêu đề=Week Ending October 23, 2011. Albums: Casting Crowns Not Crowned &#124; Chart Watch – Archives – Yahoo! Music |nhà xuất bản=New.music.yahoo.com |ngày tháng=October 26, 2011 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref> Eminem có mười album số một ''Billboard'' 200: bảy album solo (5 album phòng thu và 2 tuyển tập), hai với D12 và một với [[Bad Meets Evil]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/17386/121335 |tiêu đề= Eminem Will Score Biggest Sales Week of 2010 |work=Rolling Stone |ngày tháng=June 24, 2009 |ngày truy cập=August 12, 2010}}</ref> ''The Eminem Show'', ''The Marshall Mathers LP'', và ''Encore'' lần lượt là album bán chạy thứ 3, 7 và 40 trong thập niên 2000.<ref name="billboard.com">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/charts-decade-end/billboard-200-albums?year=2009|tiêu đề=Billboard - Music Charts, Music News, Artist Photo Gallery & Free Video|work=Billboard|ngày truy cập=September 25, 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/charts-decade-end/billboard-200-albums?year=2009&begin=21&order=position|tiêu đề=Billboard - Music Charts, Music News, Artist Photo Gallery & Free Video|work=Billboard|ngày truy cập=September 25, 2014}}</ref> Anh cũng có 13 single quán quân toàn cầu. Eminem được nhắc tới trong sự thăng tiến của các rapper như [[50 Cent]], [[Yelawolf]], [[Stat Quo]], [[Royce da 5'9"]], [[Cashis]], [[Obie Trice]], [[Bobby Creekwater]], và nhóm rap như [[D12]] và [[Slaughterhouse (nhóm hip hop)|Slaughterhouse]].
 
Vào tháng 8/ năm 2011 Eminem được tạp chí ''Rolling Stone'' gọi với cấi tên Ông vua Hip-Hop sau khi phân tích doanh số album, vị trí các bảng xếp hạng R&B, hip-hop và rap, lượt xem YouTube, mạng xã hội, doanh thu biểu diễn, giải thưởng và các đánh giá phê bình của các rapper phát hành nhạc từ năm 2009 tới nửa đầu năm 2011.<ref name="rollingstone1">{{Chú thích web|tác giả 1=Chris Molanphy |url=http://www.rollingstone.com/music/news/introducing-the-king-of-hip-hop-20110815 |tiêu đề=Introducing the King of Hip-Hop|work=Rolling Stone |ngày tháng=August 15, 2011 |ngày truy cập=August 20, 2011}}</ref> Album thành công thứ hai của anh, ''The Marshall Mathers LP'', là album solo bán nhanh nhất Hoa Kỳ<ref name="MMLP">{{Chú thích web|ngày truy cập=April 23, 2008 |url= http://www.rollingstone.com/news/story/5923810/eminem_bounces_britney_from_top_spot|tiêu đề=Eminem Bounces Britney From Top Spot |work=Rolling Stone|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20080401120550/http://www.rollingstone.com/news/story/5923810/eminem_bounces_britney_from_top_spot |ngày lưu trữ =April 1, 2008|url hỏng=yes}}</ref> và được xếp là một trong những album hip-hop hay nhất mọi thời đại theo ''Rolling Stone'', ''[[Time]]'' và ''[[XXL (tạp chí)|XXL]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/news/story/5938174/the_rs_500_greatest_albums_of_all_time/4 |tiêu đề=The RS 500 Greatest Albums of All Time: Rolling Stone |ngày truy cập=December 21, 2008 |work=Rolling Stone |ngày tháng=November 18, 2003 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090430182958/http://www.rollingstone.com/news/story/5938174/the_rs_500_greatest_albums_of_all_time/4 | ngày lưu trữ=April 30, 2009 }}
*{{cite news |url=http://www.time.com/time/2006/100albums/index.html|title= The All-TIME 100 Albums|accessdate=December 21, 2008|work= TIME|date= November 13, 2006}}
*{{cite journal | author=XXL |authorlink=XXL (magazine) |title=Retrospective: XXL Albums |journal= XXL Magazine |date=December 2007 }}
Hàng 261 ⟶ 260:
*''[[The Marshall Mathers LP 2]]'' (2013)
*''[[Revival (album của Eminem)|Revival]]'' (2017)
*''[[Kamikaze (album của Eminem)|Kamikaze]] (2018)''
 
==Danh sách phim==