Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vũ Huy Tấn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 2:
 
==Tiểu sử==
Vũ Huy Tấn sinh năm [[Kỷ Tỵ]] ([[1749]]) tại làng Mộ Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay thuộc tỉnh [[Hải Dương]]). Cha ông là [[Vũ Huy Đỉnh]], [[Tiến sĩ]] cuối thời [[Lê mạt]]. Là người giỏi văn thơ lại có tài ứng đối.
 
Năm [[1768]], Vũ Huy Tấn đỗ đầu kỳ [[thi Hương]], được bổ làm Thị nội Văn chức, dưới thời vua [[Lê Hiển Tông]].
Dòng 14:
Năm sau ([[1790]]), ông lại cùng với [[Ngô Văn Sở]], [[Phan Huy Ích]] lãnh giao nhiệm vụ đưa phái đoàn của giả vương Phạm Công Trị sang [[nhà Thanh]].
 
Trở về nước, ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước ''Hạo Trạch hầu''.

Năm Dưới1795, dưới triều [[Nguyễn Quang Toản|Cảnh Thịnh]], ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư.
 
Năm [[Canh Thân]] ([[1800]]), Vũ Huy Tấn mất năm 51 tuổi, tức trước khi [[nhà Tây Sơn]] bị diệt vong ([[1802]]).
 
Theo sử liệu, khi đến Yên Kinh (tức [[Bắc Kinh]]) cùng giả vương Phạm Công Trị, ông đã phản đối quan lại [[nhà Thanh]] bởi họ gọi các quan trong sứ bộ [[Việt Nam]] là "di quan", tức quan mọi rợ (việc làm này được ông nói đến trong bài thơ "Biện di", có nghĩa ''Biện bác về chữ di''), được người đời khen ngợi <ref>Theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 956) và ''Từ điển văn học'' (bộ mới, tr. 2026).</ref>.
 
Ghi nhận sự nghiệp của Vũ Huy Tấn, ở [[bình Thạnh|quận Bình Thạnh]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]] có con đường mang tên ông.
 
==Tác phẩm==
Theo sử liệu, khi đến Yên Kinh (tức [[Bắc Kinh]]) cùng giả vương Phạm Công Trị, ông đã phản đối quan lại [[nhà Thanh]] bởi họ gọi các quan trong sứ bộ [[Việt Nam]] là "di quan", tức quan mọi rợ (việc làm này được ông nói đến trong bài thơ "Biện di", có nghĩa ''Biện bác về chữ di''), được người đời khen ngợi <ref>Theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 956) và ''Từ điển văn học'' (bộ mới, tr. 2026).</ref>.
 
khi đi sứ nhà Thanh, một hôm ngồi trong công quán, ông thấy quan nhà Thanh ghi sổ những cống phẩm của nước ta có chép hai chữ "di quan" (quan mọi) để chỉ sứ bộ Đại Việt. Tuy trong lòng rất bất bình nhưng ông nghĩ, chẳng lẽ lại đi gây gổ với người ta. Là người giỏi văn thơ lại có tài ứng đối nên ông nghĩ ra một hình thức phản kháng vừa tao nhã, vừa thích hợp để bảo vệ quốc thể. Vũ Huy Tấn đã làm một bài thơ có tựa đề là "Biện di" (có nghĩa là Biện bác về chữ di). Bài thơ như sau:
 
''Di bản tòng "cung" hựu đới "qua"''
 
''Ngô bang văn hiến tựa Trung Hoa''
 
''Thần kim khâm sứ An Nam quốc''
 
''Thử tự thư lai bất diệc ngoa.''
 
Dịch thơ:
 
''Di vốn là cung hợp với qua''
 
''Nước ta văn hiến giống Trung Hoa''
 
''Thần nay là sứ An Nam quốc''
 
''Viết bậy là di há chẳng ngoa?''
 
Bài thơ đã dùng phép chiết tự của chữ "di" mà quan lại nhà Thanh dùng. Chữ "di" gồm chữ "cung" và chữ "qua" hợp lại. Câu thơ có nghĩa là: Các ông coi chúng tôi là man di, nhưng di ở đây là di có sức mạnh cung và mác, chứ không phải là mọi rợ đâu, làm cho Thiên triều phải nể phục.
 
Bài thơ tỏ ý phản đối thái độ xấc xược của quan lại nhà Thanh, vừa cương nghị, vừa khéo léo, sâu cay mà vẫn giữ được hòa khí. Nghe nói, viên quan nhà Thanh đọc bài thơ rất thán phục, sự việc truyền tới tai vua Thanh, lối gọi miệt thị đó đã bị bãi bỏ.
 
Trên đường đi sứ, Vũ Huy Tấn ghé thăm nơi ngày xưa tướng nhà Hán là Mã Viện dựng cột đồng phân chia ranh giới nước ta và Trung Hoa, ông đã cảm xúc làm bài thơ "Vọng đồng trụ cảm hoài" (Trông chỗ cột đồng, cảm xúc). Đây là bài thơ gây ấn tượng sâu sắc về tinh thần tự hào dân tộc, ý thức chủ quyền quốc gia.
 
''"Sớm ra thành Minh Châu''
 
''Tìm thăm dấu đồng trụ,''
 
''Dân xứ trỏ đằng xa,''
 
''Xanh xanh hai đá ụ''
 
''Than ôi! Đồng trụ ấy,''
 
''Nền mốc cũ nước ta.''
 
''Thời Trưng Vương buổi trước,''
 
''Mã Viện vạch đôi ra,''
 
''Son phấn thật anh hùng,''
 
''Muôn thuở còn tấm tắc''
 
''Giận cắt đất dâng người''
 
''Đứa nhúng tay vào vạc.''
 
''Bờ cõi bị chìm đắm,''
 
''Khoảng vài trăm năm đây.''
 
''Khói mù luôn sớm tối,''
 
''Thương cảm cuộc xưa, nay"...''
 
(Khương Hữu Dụng dịch)
 
Tác phẩm của Vũ Huy Tấn hiện chỉ còn một tập thơ bằng [[chữ Hán]] có tên là '''Hoa nguyên tùy bộ tập''', gồm những bài sáng tác trong chuyến đi sứ năm [[Kỷ Dậu]] ([[1790]]). Đây là bản viết tay, không rõ năm chép, được lưu trữ trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm ([[Hà Nội]]) mang ký hiệu '''A. 375'''. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn xác định 6 bài thơ xướng họa của ông với các sứ thần [[Joseon]] cũng trong chuyến đi sứ năm [[Kỷ Dậu]] ([[1790]]).<ref>[http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=2272&Catid=952 KHẢO SÁT THƠ VĂN XƯỚNG HỌA CỦA CÁC SỨ THẦN HAI NƯỚC VIỆT - HÀN THỜI KỲ TRUNG ĐẠI]</ref>