Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồng quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 245:
</ref><ref>Nhật ký của nhà viết kịch và đạo diễn người Nga [[Zakhar Agranenko]]</ref><ref>Antony James Beevor, ''Berlin: The Downfall 1945'' (Ngày tàn của Berlin năm 1945), trang 28; [http://www.amazon.co.uk/Berlin-Downfall-1945-Antony-Beevor/dp/0140286969 mua sách này trên Amazon]</ref><ref>[http://www.guardian.co.uk/g2/story/0,3604,707835,00.html Báo ''The Guardian'' trích sách của Antony James Beevor], ngày 1 tháng 5 năm 2002</ref><ref>Alfred-Maurice de Zayas, ''Die Anglo-Amerikaner und die Vertreibung der Deutschen'', Tr. 87, Ullstein, 1988. [http://www.amazon.de/Die-Anglo-Amerikaner-die-Vertreibung-Deutschen/dp/3548332064 Để kiểm chứng, có thể mua sách này trên Amazon]</ref><ref>Franz Wilhelm Seidler và Alfred-Maurice de Zayas, ''Kriegsverbrechen in Europa und im Nahen Osten im 20. Jahrhundert'' (Tội ác chiến tranh ở châu Âu, Đông Đức trong thế kỷ 20); [http://www.preistrend.de/Buch_Preisvergleich_Kriegsverbrechen_in_Europa_und_im_Nahen_Osten_im_20_Jahrhundert__o7249710201767402.html mua sách này trên PreisTrend] hoặc [http://www.amazon.de/Kriegsverbrechen-Europa-Nahen-Osten-Jahrhundert/dp/3813207021/ref=pd_bxgy_b_img_b trên Amazon]</ref><ref>Theodor Schieder, ''Dokumentation der Vertreibung der Deutschen aus Ost-Mitteleuropa'' (Tư liệu về việc người Đức bị bắt phải di cư khỏi miền đông Trung Âu), nhà xuất bản Deutscher Taschenbuch Verlag (DTV), [[München]], Đức, năm 2004; [http://www.dtv.de/dtv.cfm?wohin=dtvnr59072 mua sách trên website của DTV]</ref>. Nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính Hồng quân hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp trên 70 lần<ref>William Hitchcock, ''The Struggle for Europe: The Turbulent History of a Divided Continent, 1945-2002'' (Cuộc chiến giành châu Âu: Lịch sử hỗn loạn của một lục địa bị chia cắt, 1945-2002); [http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Continent-1945-2002/dp/0385497989 mua sách này trên Amazon]</ref>--><ref>Helke Sander và Barbara Johr, phim tư liệu ''BeFreier und Befreite. Krieg, Vergewaltigung, Kinder'' (Những kẻ đem lại tự do lại cướp mất tự do. Chiến tranh, hãm hiếp, và trẻ con); [http://www.amazon.de/BeFreier-Befreite-Krieg-Vergewaltigung-Kinder/dp/3596163056 mua phim tư liệu này trên Amazon]</ref><ref>Richard Overy, phim tư liệu ''Russia's War: Blood upon the Snow'' (Cuộc chiến của nước Nga: Máu trên tuyết), năm 1997; [http://www.amazon.com/Russias-War-Blood-Upon-Snow/dp/6304547188 mua phim tư liệu này trên Amazon]</ref>. Việc hãm hiếp phụ nữ Đức được các binh sĩ này xem là chiến tích để báo thù cho người Liên Xô và để bẻ gãy tinh thần kháng cự của người Đức<ref name="beevor">Antony James Beevor, ''Berlin: The Downfall 1945'' (Ngày tàn của Berlin năm 1945); [http://www.amazon.co.uk/Berlin-Downfall-1945-Antony-Beevor/dp/0140286969 mua cuốn sách này trên Amazon]</ref>. Đến năm [[1948]], các chỉ huy quân đội Liên Xô mới có biện pháp dứt khoát khi cấm binh sĩ ra khỏi doanh trại và tiếp xúc với dân địa phương<ref name="naimark">Norman Naimark, ''The Russians in Germany: A History of the Soviet Zone of Occupation, 1945-1949'' (Người Nga trên đất Đức, Lịch sử của vùng chiếm đóng của Xô Viết), xuất bản 1995 bởi [[Đại học Harvard]]; [http://www.amazon.com/Russians-Germany-History-Occupation-1945-1949/dp/0674784057 mua sách này trên Amazon]</ref><!--. Tác giả Norman Naimark viết rằng: "Tâm lý xã hội của phụ nữ Đông Đức được đánh dấu bởi tội ác hãm hiếp và cưỡng bức của Hồng quân Liên Xô kể từ những ngày đầu chiếm đóng, qua năm 1949 khi mà [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]] được thành lập, cho đến tận ngày nay"<ref>Norman Naimark, ''The Russians in Germany: A History of the Soviet Zone of Occupation, 1945-1949'' (Người Nga trên đất Đức, Lịch sử của vùng chiếm đóng của Xô Viết), xuất bản năm 1995 bởi [[Đại học Harvard]], trang 133; [http://www.amazon.com/Russians-Germany-History-Occupation-1945-1949/dp/0674784057 mua sách này trên Amazon]</ref>. Ở [[Hungary]], hơn 50 ngàn phụ nữ và trẻ em đã bị Hồng quân Liên Xô hãm hiếp chỉ riêng ở thủ đô [[Budapest]]<ref>James Mark, ''Remembering Rape: Divided Social Memory and the Red Army in Hungary 1944-1945'' (Hãm hiếp: Hồi ức của một xã hội chia cắt và Hồng quân ở Hungary 1944-1945), nhà xuất bản [[Đại học Oxford]] năm 2005, trang 133 đến 161; [http://muse.jhu.edu/about/publishers/oxford/ đọc trên Thư viện Oxford])</ref>-->. Nhiều nhà sử học đã lý giải cho hành động của Hồng quân Liên Xô ở Đức và Hungary rằng ''"họ có mối căm thù sâu sắc đối với Đức Quốc xã"''<ref>Theo sách của phóng viên chiến trường người Nga [[Vasily Semyonovich Grossman]], người đã theo Hồng Quân trong cuộc chiến; [http://www.amazon.com/Writer-War-Vasily-Grossman-1941-1945/dp/0375424075 mua sách của Grossman trên Amazon]</ref><ref>[http://www.telegraph.co.uk/news/main.jhtml?xml=/news/2002/01/24/wbeev24.xml Bài viết của Daniel Johnson trên báo ''Telegraph''], ngày 25 tháng 1 năm 2002</ref><!--. Tại [[Nam Tư]], đã có 121 vụ hãm hiếp tập thể được ghi lại, và 111 nạn nhân trong số đó bị giết tại chỗ, số nạn nhân phụ nữ thực tế có thể cao hơn nhiều<ref name="naimark"/><ref>Catherine Merridale, ''Ivan's War, the Red Army 1939-1945'' (Cuộc chiến của Ivan, Hồng quân 1939-1945), London: Faber and Faber xuất bản năm 2005; [http://www.amazon.co.uk/Ivans-War-Inside-Army-1939-45/dp/0571218091 mua sách này trên Amazon], [http://www.amazon.com/Ivans-War-Life-Death-1939-1945/dp/0805074554 bản bìa cứng]</ref><ref>[http://arts.independent.co.uk/books/reviews/article329136.ece Bài viết của Virginia Rounding trên báo ''The Independent'' về sách của Merridale], ngày 25 tháng 11 năm 2005</ref>. Những thông tin này được giấu kín cho đến khi Liên Xô tan rã và các hồ sơ bí mật dần được tiết lộ<ref name="beevor"/><ref>[http://www.rferl.org/features/2002/05/08052002104901.asp Bài viết của Jeremy Bransten trên Radio Free Europe Radio Liberty], giới thiệu sách của Beevor</ref>. Khi bị một sĩ quan than phiền về việc quân sĩ cướp bóc và hãm hiếp, [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] đã trả lời rằng "Ông ta không hiểu nổi à? Lính của ta vượt qua hàng ngàn dặm, qua máu và lửa, hiếp dâm và ăn cướp chút ít có sao đâu?"<ref>Norman Naimark, ''The Russians in Germany: A History of the Soviet Zone of Occupation, 1945-1949'' (Người Nga trên đất Đức, Lịch sử của vùng chiếm đóng của Xô Viết), xuất bản 1995 bởi [[Đại học Harvard]], trang 71; [http://www.amazon.com/Russians-Germany-History-Occupation-1945-1949/dp/0674784057 mua sách này trên Amazon]</ref>. Hồi ký của bà [[Marta Hillers]], một nạn nhân trực tiếp của những cuộc hãm hiếp của Hồng quân Liên Xô, đã mô tả lại sự kinh hoàng và cố gắng để sống sót trong thời đó ở Berlin. Bà đã cho phép xuất bản cuốn hồi ký và yêu cầu giấu tên mình, nhưng tên tuổi bà mới được tiết lộ sau khi chết<ref>Kurt Wilhelm Marek, ''Eine Frau in Berlin'' (Một người phụ nữ ở Berlin), xuất bản dưới tên 'vô danh', nguyên là hồi ký của nữ nhà báo Marta Hillers; [http://www.amazon.de/Eine-Berlin-Tagebuchaufzeichnungen-April-1945/dp/3442732166/ref=pd_sim_b_img_2/303-9497647-1340253 đặt mua hồi ký này trên Amazon]</ref><ref>[http://observer.guardian.co.uk/international/story/0,6903,1056125,00.html Bài viết của Luke Harding trên báo ''The Observer''], ngày 5 tháng 10 năm 2003</ref><ref>[http://books.guardian.co.uk/reviews/history/0,,1519031,00.html Bài viết của Linda Grant trên báo ''The Guardian''], ngày 2 tháng 7 năm 2005</ref>--><ref>[http://dir.salon.com/story/books/review/2005/08/18/berlin/ Bài viết của Jonathan Shainin trên Salon], ngày 18 tháng 8 năm 2005</ref>.
 
Sử gia Anthony Beevor cáo buộc rằng có những binh lính Hồng quân còn cưỡng hiếp cả những nữ tù binh Liên Xô được giải thoát khỏi các trại giam. Ông cũng cáo buộc chính quyền Liên Xô dù đã nhận được thông tin về những vụ hãm hiếp của Hồng quân nhưng lại cố tình làm ngơ và không có động thái gì để ngăn chặn.<ref name="Bird">{{cite journal |last=Bird |first=Nicky |title=Berlin: The Downfall 1945 by Antony Beevor |journal=International Affairs |volume=78 |number=4 |date=October 2002 |pages=914–916 |institution=Royal Institute of International Affairs}}</ref>. Năm 2015, sách của Beevor đã bị cấm ở các trường học ở Nga <ref>{{cite news|url=https://www.theguardian.com/world/2015/aug/05/russian-region-bans-british-historians-books-from-schools|title=Russian region bans British historians' books from schools|last=Walker|first=Shaun|date=6 August 2015|newspaper=The Guardian|accessdate=6 August 2015|location=Moscow}}</ref>. Norman Naimark cho rằng động cơ đằng sau những vụ hãm hiếp của binh lính Liên Xô có thể xuất phát từ "cảm giác tự ti của người Nga" khi chứng kiến mức sống cao hơn của người Đức so với họ, ngay cả trong tình trạng đổ nát. Ông này cũng cho rằng ảnh hưởng của việc say rượu và tâm lí muốn trả thù Đức cũng là lí do khiến cho binh lính Hồng quân có những hành vi ngược đãi đối với dân thường Đức {{sfn|Naimark|1995|pages=114–115}}
 
Tuy nhiên, một số tài liệu và hồi ký của các binh sĩ Hồng Quân phủ nhận điều này. Trong [[Hồi ký của Mansur]], tiểu đoàn trưởng một đơn vị Hồng quân, ông nói "không có cướp bóc và hãm hiếp bởi binh sĩ dưới quyền" bởi những hình phạt nghiêm khắc được đề ra. Thậm chí ông kể lại một người Đức đã dẫn hai cô gái đến cho ông để "lấy lòng", và ông đã đuổi họ về vì cho rằng đó là "quá vô đạo đức". Trong hồi ký khác "800 ngày trên Mặt trận phía Đông", tác giả đã gọi những sử gia [[phương Tây]] loan báo về nạn cướp bóc hãm hiếp trên diện rộng là "những sử gia xấu bụng", các tài liệu mang màu sắc chính trị chống Xô Viết từ thời [[Chiến tranh Lạnh]]. Ông cho rằng những hành vi này chỉ xảy ra ở các đơn vị cá biệt. Hơn nữa con số phụ nữ bị hãm hiếp đã bị phóng đại, vì thực tế có rất ít trẻ em Đức sinh ra sau chiến tranh không rõ cha là ai.