Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Tư Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi về phiên bản 54537526 bởi 113.161.72.223 (thảo luận): Lùi sửa đổi của rối đã check user. (TW) Thẻ: Lùi sửa |
|||
Dòng 43:
| niên hiệu = [[Sùng Trinh]] (崇禎
| thời gian của niên hiệu = [[5 tháng 2|5/2]]/[[1628]]–[[25 tháng 4|25/4]]/[[1644]])<br> ({{Age in years and days|1628|2|5|1644|4|25}})
| thụy hiệu = <font color = "grey">Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thê Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế (Nhà Thanh)<br> (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝)<br> Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Võ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế(Nhà Nam Minh)<br> ((紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝)
| hoàng tộc [[Nhà Minh]] (明)
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
Dòng 51:
}}
'''Minh Tư Tông''' ([[chữ Hán]]: 明思宗; [[6 tháng 2]] năm [[1611]] - [[25 tháng 4]] năm [[1644]]) tức '''Sùng Trinh Đế''' (崇禎帝), là vị [[hoàng đế]] cuối cùng của [[nhà Minh|triều đại nhà Minh]] và cũng là vị hoàng đế người Hán cuối cùng cai trị [[Trung Quốc]] trước khi triều đình rơi vào tay [[nhà Thanh]] của [[người Mãn Châu]]. Các sử gia [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] còn dùng miếu hiệu '''Minh Nghị Tông''' ('''毅宗'''), hoặc '''Minh Uy Tông''' ('''威宗''') để gọi ông. Ông còn được [[nhà Nam Minh]] truy thụy khác là '''Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Võ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế''' (紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝). [[Nhà Thanh]] tiến vào [[Trung nguyên]] truy đặt [[miếu hiệu]] cho ông là '''Hoài Tông Trang Liệt Hoàng đế ,''' thụy hiệu là '''Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thê Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế''' (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝).<ref name="vth833">Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 833</ref>
== Thời trẻ ==
Dòng 141:
Trong lúc đó tình hình triều Minh ngày càng nghiêm trọng. Phía đông bắc quân Thanh uy hiếp nặng nề, bên trong quân khởi nghĩa [[Lý Tự Thành]] và [[Trương Hiến Trung]] ngày càng lớn mạnh. Lý Tự Thành nêu cao khẩu hiệu "chia ruộng đất cho dân cày, miễn nộp lương thực", "không đi phu" khiến dân chúng nhiều nơi hưởng ứng. Năm 1641, Lý Tự Thành đánh chiếm [[Lạc Dương]], phát triển lực lượng lên hàng triệu người, còn Trương Hiến Trung cũng đánh chiếm Hán Dương, [[Vũ Xương]], Nhạc châu, Trường Sa, Bảo Khánh…<ref>An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 252</ref><ref>Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 917</ref>.
Tháng 8 năm [[1643]], Minh Tư Tông cử [[Tôn Truyền Đình]] làm Binh bộ Thượng thư mang 10 vạn quân ra dẹp quân nổi dậy. [[Tôn Truyền Đình]] đánh từ Đồng Quan, còn Tả Lương Ngọc mang quân Hà Nam, Tứ Xuyên cùng tiến. Lý Tự Thành tập trung quân tinh nhuệ ở Hồ Quảng tới Hà Nam
Đầu năm 1644, Sấm vương Lý Tự Thành tự xưng là hoàng đế, đặt tên nước là [[Đại Thuận]] và chia quân làm 2 đường tiến đánh [[Bắc Kinh]]. Lý Tự Thành viết thư cho Sùng Trinh, ra tối hậu thư tới ngày 15 tháng 3 phải đầu hàng; đồng thời viết thông báo đi các nơi công bố tội trạng của vua quan [[nhà Minh]].
Dòng 149:
Nhưng tin thất trận liên tiếp báo về. Sang tháng 3 âm lịch, Lý Tự Thành bắt sống Tấn vương Chu Cầu Quế, còn Tuần phủ Sái Mậu Đức tự vẫn; Trương Hiến Trung vây hãm Trùng Khánh, giết Đoan vương Chu Thường Hạo và Tuần phủ Trần Sĩ Kỳ. Các trấn Ninh Vũ, Đại Đồng, Bảo Định, Tuyên Phủ đều thất thủ. Tướng Đỗ Huấn từ phủ Đại Danh ra nghênh đón đầu hàng Lý Tự Thành. Minh Tư Tông không tin, cho rằng Đỗ Huấn tử tiết vì nước nên phong cho con em Huấn làm quan<ref>An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 257-258</ref>.
:''Không phải trẫm là hoàng đế mất nước mà các khanh đều là bề tôi mất nước''
Dòng 174:
Sáng ngày 19 tháng 3 (tức ngày 25 tháng 4 dương lịch), quân Đại Thuận được các thái giám mở cổng thành ồ ạt tiến vào thành. Sùng Trinh bèn cùng Vương Thừa Ân bỏ chạy, trèo lên núi Vạn Thọ (tức Môi Sơn, nay là Cảnh Sơn), bước tới dưới một gốc cây hòe ở đình Thọ Hoàng, từng là kiểm duyệt nội thao của [[hoàng đế]]. Ông cởi bỏ hoàng bào, giận dữ viết lên vạt áo<ref>Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 931</ref>:
{{cquote|
''
Sau đó Minh Tư Tông đi chân đất mặc quần áo nhẹ, rối [[tóc]] che mặt, đứng đối diện với Vương Thừa Ân và treo cổ tự vẫn. Năm đó ông 33 tuổi, tính theo tuổi ta là 35 tuổi<ref>Hồ Hán Sinh, sách đã dẫn, tr 360. Chu Do Kiểm sinh ngày 24/12 âm lịch năm Vạn Lịch thứ 38, theo âm lịch là 1610 nhưng theo dương lịch đã sang năm 1611, vì vậy tính tuổi dương chỉ có 33 nhưng tuổi âm đã là 35</ref>. Vương Thừa Ân cũng tự
== An táng ==
Hàng 219 ⟶ 217:
|-
|1
|[[Chu Tử
|Hiến Mẫn Thái tử<br>獻愍太子
|26 tháng 2 năm 1629
Hàng 227 ⟶ 225:
|-
|2
|[[Chu Tử
|Hoài Ẩn vương<br>懷隱王
|15 tháng 1 năm 1630
Hàng 235 ⟶ 233:
|-
|3
|[[Chu Tử
|Định Ai vương<br>定哀王
|1632
Hàng 243 ⟶ 241:
|-
|4
|[[Chu Tử
|Vĩnh Điệu vương<br>沅怀王
|1632
Hàng 251 ⟶ 249:
|-
|5
|[[Chu Tử
|Điệu Linh vương<br>悼靈王
|1633
Hàng 259 ⟶ 257:
|-
|6
|[[Chu Tử
|Điệu Hoài vương<br>悼懷王
|1637
|