Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Nguyên Trừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 32:
| nơi an táng = [[Nam An Hà]], [[Bắc Kinh]], [[Trung Quốc]]
}}
'''Hồ Nguyên Trừng''' ([[chữ Hán]]: 胡元澄 [[1374]] - [[1446]]) [[biểu tự]] '''Mạnh Nguyên''' (孟源), hiệu '''Nam Ông''' (南翁), sau đổi tên thành '''Lê Trừng'''<ref>Geoff Wade, translator, ''Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource'', Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, <nowiki>http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/xuan-de/year-1-month-3-day-17-1</nowiki>, accessed January 23, 2017.</ref> là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia [[Đại Ngu]], con trưởng của vua [[Hồ Quý Ly]] và là anhhoàng huynh vua [[Hồ Hán Thương]]. Ông làm tể tướng triều Hồ, có nhiều đóng góp về khoa học quân sự và là chỉ huy chính của quân đội Việt trong [[Chiến tranh Đại Ngu - Minh|kháng chiến chống Minh]] ([[1406]]-[[1407]]).
 
Cuối thời [[nhà Trần|Trần]], [[Hồ Quý Ly]] làm Phụ chính [[Thái sư]], nắm mọi việc trong triều, Nguyên Trừng nhận chức [[Tư đồ]]. Sau khi [[nhà Hồ]] thành lập, ông nhận chức [[Thừa tướng|Tả Tướng quốc]], cùng với chú là Hữu Tướng quốc [[Hồ Quý Tỳ]] đứng hàng [[Tể tướng]]. Cuối năm 1406, [[nhà Minh|đế quốc Minh]] xâm lược [[Đại Ngu]], vua [[Hồ Hán Thương]] sai Tả Tướng quốc Trừng cầm quân chống lại. ''[[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]'', bộ quốc sử [[Đại Việt]] thời [[nhà Hậu Lê|Lê]] kể Hồ Nguyên Trừng đã trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn như [[trận Lãnh Kinh]] ([[1406]]), trận phòng thủ [[Đa Bang]], cùng các trận phản công [[sông Lô]] và cửa [[Hàm Tử]] ([[1407]]). Trừ trận [[Lãnh Kinh]] là thắng lợi khó nhọc của quân [[Đại Ngu]], các trận đánh do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đều thất bại. Tháng 5 âm lịch năm [[1407]], Hồ Nguyên Trừng bị bắt về [[Trung Quốc]] cùng với Thượng hoàng [[Hồ Quý Ly]], vua [[Hồ Hán Thương]], Hữu Tướng quốc [[Hồ Quý Tỳ]]. Về sau, ông được [[nhà Minh]] sung vào [[bộ Công|Công bộ]] làm quan, được nhà Minh gọi là [['''Hỏa khí chi thần''']] (火器之神)<ref name="kyluc.vn">[http://kyluc.vn/s100/412.ho-nguyen-trung-ong-to-cua-nghe-duc-sung-than-cong-viet-nam.html Hồ Nguyên Trừng (Ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam), http://kyluc.vn]</ref>. Ngoài ra ông còn là [[nhà văn]] [[Việt Nam]] ở [[thế kỷ 15|thế kỷ XV]], với tác phẩm tự kể ''[[Nam Ông mộng lục]]''.
 
==Sự nghiệp ban đầu==
Hồ Nguyên Trừng, trước để [[họ Lê]], người huyện [[Vĩnh Phúc]], lộ [[Thanh Hoa]] (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]])<ref>Chép theo ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 638.</ref>. Ông là con trai cả của [[Hồ Quý Ly|Lê Quý Ly]] và là anh của [[Hồ Hán Thương|Lê Hán Thương]] cùng [[Khâm Thánh hoàng hậu|Lê Thánh Ngâu]]. Mẹ ông có thể là một người thiếp, vì vợ cả của Quý Ly là [[Huy Ninh Công chúa]] Trần thị chỉ sinh một nam một nữ, đó là [[Hồ Hán Thương|Hán Thương]] và Thánh Ngâu. Trong tập ''[[Nam Ông mộng lục]]'' ông có nói ngoại tổ phụ tên [[Nguyễn Thánh Huấn]] (阮聖訓), vốn là một người rất hay thơ đời [[Trần]], nên mẹ của ông có lẽ là Nguyễn Phu nhân. Tuy nhiên, câu viết trong bài là ''"Trừng thái phụ chi ngoại tổ viết: Nguyễn Công"'',<ref>Nguyên văn: 澄太父之外祖曰阮公</ref> có lẽ chưa chắc ngoại tổ phụ của Trừng họ [[Nguyễn]], mà là ngoại tổ của ông nội Trừng mới là họ [[Nguyễn]] (còn tồn nghi vấn).
 
Từ thời vua [[Trần Nghệ Tông]] (giữ ngôi [[1370]]-[[1372|721372,]], Thượng hoàng [[1372]]-[[1394|94]]), Lê Quý Ly là em họ bên ngoại của nhà vua, nên được cất nhắc làm quan. Lê Quý Ly thăng tiến rất nhanh, đến năm 1387 được bổ làm Đồng bình chương sự, tức [[Tể tướng]]. Được sự tin tưởng và chống lưng của Thượng hoàng [[Trần Nghệ Tông]], Lê Quý Ly nắm quyền lực gần như tuyệt đối; các tôn thất và quan lại trung thành với triều [[Trần]] đã nhiều lần làm chính biến nhằm lật đổ Lê Quý Ly, nhưng đều thất bại và nhiều người bị giết, trong đó có vua [[Trần Phế Đế (Đại Việt)|Trần Phế Đế]].
 
Sau khi giết Trần Phế Đế năm [[1388]], Thượng hoàng Nghệ Tông lập con út là Chiêu Định vương Ngung lên ngôi, tức vua [[Trần Thuận Tông]]. Lê Quý Ly tiếp tục nắm quyền quyết định trong triều. Tháng 11 âm lịch năm [[1394]], triều đình bỏ cơ quan Đăng văn kiểm pháp viện, đặt Thượng lâm tự, bổ Lê Nguyên Trừng làm Phán tự sự. Tháng 12 âm lịch năm này, Thượng hoàng chết. Năm [[1395]], Lê Quý Ly ép Thuận Tông phong mình làm Nhập nội Phụ chính Thái sư bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên Trung Vệ quốc đại vương, đeo lân phù vàng.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=288}}
Dòng 45:
Năm [[1399]], Lê Quý Ly giết vua [[Trần Thuận Tông]], lập Thái tử An 3 tuổi lên thay, tức [[Trần Thiếu Đế]]. Tháng 6 âm lịch năm này, Quý Ly tự phong làm Quốc tổ Chương ''[[Hoàng đế|Hoàng]]'', mặc áo màu bồ hoàng, ra vào cung Nhân Thọ có 12 chiếc lọng vàng, theo lệ của thái tử. Quý Ly phong con trưởng là Nguyên Trừng làm Tư đồ, con thứ là Hán Thương làm Nhiếp thái phó.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=295}}
 
Mùa xuân năm [[1400]], dù vua Trần Thiếu Đế còn tại ngôi, Lê Quý Ly lập con thứ là Lê Hán Thương làm [[Thái tử]], đây là 1một bước quan trọng trong quá trình thâu tóm ngôi vua của Quý Ly.
 
Theo ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'', tuy Lê Nguyên Trừng là con cả nhưng mẹ không phải Huy Ninh Công chúa, mà [[Hồ Hán Thương|Hán Thương]] lại là con của công chúa, nên Quý Ly muốn chọn Hán Thương làm [[thái tử]], nhưng ý mãi chưa quyết, mới mượn cái nghiên đá mà nói rằng: ''"Thử nhất quyển kỳ thạch, hữu thì vi vân vũ dĩ nhuận sinh dân"'' (Hòn đá lạ bằng nắm tay này, có lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân), bảo con trưởng là Trừng đối lại để xem chí hướng ra sao.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=296}} Trừng đối lại rằng: ''"Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc"'' (Cây thông nhỏ mới ba tấc kia, ngày sau làm rường cột để chống nâng xã tắc). Bấy giờ, Lê Quý Ly ý mới quyết định.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=296}}
Dòng 51:
Ngày 28 tháng 2 âm lịch năm [[1400]], Lê Quý Ly bức Trần Thiếu Đế nhường ngôi. Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ, lên ngôi [[Hoàng đế]], lấy niên hiệu Thánh Nguyên, đổi tên nước thành [[Đại Ngu]]. [[Nhà Hồ]] thành lập. Không lâu sau, nhà vua phong Hồ Nguyên Trừng làm ''Tả Tướng quốc'' (左相國), tước hiệu '''Vệ vương''' (衞王)<ref>Cứ theo 《Quốc các》 (國榷) của người Minh: 說胡元澄被俘時,其稱號是「偽衞王」,見卷十四,成祖永樂五年九月乙卯條,北京中華書局版,995頁。</ref>.
 
Tháng 12 âm lịch năm [[1401]], [[Hồ Quý Ly]] nhường ngôi cho Thái tử [[Hồ Hán Thương]]. Hán Thương lên ngôi Hoàng đế, tôn vua cha làm [[Thái thượng hoàng]]. Hồ Nguyên Trừng tiếp tục làm Tả Tướng quốc, cùng chú là Hữu Tướng quốc Hồ Quý Tỳ coi việc nước.
 
Theo [[Minh thực lục]], toàn tước vị của Hồ Nguyên Trừng khi bị bắt là: Thôi Thành Thủ Chánh Dực Tán Hoằng Hóa công thần, Vân Truân Trấn Kiêm Quy Hóa Trấn Gia Hưng đẳng Trấn Chư quân sự [[Tiết độ sứ|Tiết Độ đại sứ]], Thao Giang Quản nội Quan sát xử Trí đẳng sử, Sử Trì Tiết Vân Truân Quy Hóa Gia Hưng Đẳng Trấn Chư quân sự, Lĩnh Đông Lộ Thiên Trường Phủ Lộ Đại Đô đốc phủ, Đặc tiến, Khai phủ nghi đồng tam ti, Nhập nội Kiểm giáo, Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc sự, Tứ Kim Ngư Đại, Thượng trụ quốc, '''Vệ Quốc Đại Vương'''<ref>Nguyên văn: 推誠守正翊贊弘化功臣、雲屯鎮兼歸化鎮嘉興等鎮諸軍事節度大使、洮江管內觀察處置等使、使持節雲屯歸化嘉興等鎮諸軍事、領東路天長府路大都督府、特進、開府儀同三司、入內檢校、左相國、平章軍國事、賜金魚袋、上柱國、衛國大王</ref><ref>《明實錄‧太宗文皇帝實錄》卷七十一</ref>.
 
==Chiến tranh Minh-Đại Ngu==
{{Chính|Chiến tranh Đại Ngu-Minh}}
Trong khi [[nhà Hồ]] cai trị [[Đại Ngu]], ở phương Bắc, [[nhà Minh|đế quốc Minh]]-[[Trung Quốc]] đã phất lên rất mạnh dưới sự cai trị của [[Minh Thành Tổ]]. Minh Thành Tổ nhiều lần bộc lộ ý muốn xâm chiếm Đại Ngu, qua việc cử người do thám, ép vua [[Hồ Hán Thương]] phải cắt đất ở biên giới, và chi viện thủy quân cho [[Chiêm Thành]] ở phía Nam chống Đại Ngu. Tháng 9 âm lịch năm [[1405]], vua Hồ Hán Thương chấn chỉnh quân đội, xây dựng thành lũy, đóng cọc trên sông,... để đề phòng quân Minh. Nhà vua còn mời An phủ sứ các lộ về [[Tây Đô]] cùng triều đình bàn nên đánh hay hòa. Trong cuộc thảo luận, có người nói đánh, có người như Trấn thủ [[Bắc Giang]] Nguyễn Quân muốn tạm hòa, riêng Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng phát biểu:{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=303-305}}
{{cquote|
''Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi!''|||Hồ Nguyên Trừng}}
Dòng 65:
 
===Đánh quân Minh lần thứ nhất===
Tháng 4 âm lịch năm [[1406]], [[Minh Thành Tổ]] viện cớ phục ngôi cho [[Trần Thiêm Bình]] (tên thật Nguyễn Khang, giả mạo làm con thứ ba của [[Trần Nghệ Tông]]), sai Chinh Nam tướng quân Hữu quân đô đốc đồng tri Hàn Quan và Tham tướng đô đốc đồng tri [[Hoàng Trung]] mang 10 vạn quân từ [[Quảng Tây]] đánh [[Đại Ngu]]. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đem đại quân đón đánh ở ải Lãnh Kinh. Theo ''[[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]'', quân Đại Ngu thấy địch ít quân nên khinh suất, để bị thảm bại. Bốn đại tướng Đại Ngu là Phạm Nguyên Khôi (nhị vệ đại tướng), Chu Bỉnh Trung (chỉ huy quân Chấn Cương), Trần Huyên Huyên (chỉ huy quân Tam Phụ) và Trần Thái Bộc (chỉ huy quân [[Tả Thần Dực]]) đều chết trận. Hồ Nguyên Trừng bỏ thuyền lên bờ, suýt bị quân Minh bắt, có người thấy vậy liền dìu ông xuống thuyền, nhờ vậy ông thoát. Sau tướng Hồ Vấn bất ngờ đem quân Tả Thánh Dực từ Vũ Cao tới, đánh quân Minh thua to. Hoàng Trung đợi đến trống canh hai nửa đêm thì bỏ chạy. Vua [[Hồ Hán Thương]] đã sai tướng Hồ Xạ chỉ huy quân Hữu Thánh Dực, tướng Trần Đĩnh chỉ huy quân Thánh Dực [[Bắc Giang]] khóa chân địch tại cửa [[ải Chi Lăng]]. Quân Minh đành giao nộp [[Trần Thiêm Bình]] cho Đại Ngu để được rút về nước. Sau vua Hồ xử lăng trì [[Trần Thiêm Bình]].{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=303-305}}{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=333-334}}
 
===Đánh quân Minh lần thứ hai===
Dòng 83:
Năm [[1426]], đời [[Minh Tuyên Tông]], Lê Trừng (tức Hồ Nguyên Trừng sau khi được tha tội) làm việc cho [[bộ Công]] của nhà Minh. Ông bị vạch tội lên vua Minh vì làm việc 9 năm mà không khai báo lý lịch. Vua Minh cho rằng ông đã được Minh Thành Tổ tha tội nên không truy cứu.<ref>Geoff Wade, translator, ''Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource'', Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, <nowiki>http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/xuan-de/year-1-month-3-day-17-1</nowiki>, accessed January 23, 2017.</ref> Năm [[1428]], ông được thăng tới chức Tả Thị lang của [[bộ Công]], được trả lương bằng gạo.<ref>Geoff Wade, translator, ''Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource'', Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, <nowiki>http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/xuan-de/year-3-month-1-day-2</nowiki>, accessed January 23, 2017.</ref>
 
Biết được Hồ Nguyên Trừng (và [[Hồ Nhuế]]) có tài năng, vua [[Minh Anh Tông]] cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác (vì không thừa nhận gia đình ông là dòng dõi [[Thuấn|Ngu Thuấn]]<ref>Chi tiết này căn cứ theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 277). Thông tin thêm: Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì tự nhận mình là dòng dõi vua [[Thuấn]]. Xem chi tiết ở trang [[Hồ Quý Ly]].</ref>). Vì vậy ở sách ''[[Nam Ông mộng lục]]'', tác giả đề tên là '''Lê Trừng''' (黎澄, đổi lại họ Lê như cũ).
 
Sau, ông chế tạo được [[súng thần công]]<ref>Việc Hồ Nguyên Trừng chế tạo ra súng thần công, chép theo ''Từ điển lịch sử Việt Nam'' (tr. 277).</ref> nên lại được làm quan ở [[bộ Công]], thăng đến chức Tả Thị lang như lời ông đề ở cuối bài Tựa trong quyển ''[[Nam Ông mộng lục]]''. Trong [[Vân đài loại ngữ]], [[Lê Quý Đôn]] nhắc đến một tình tiết: "quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".<ref name="kyluc.vn"/>
Dòng 94:
Sau đó, triều Minh cho con ông là [[Lê Thúc Lâm]] (黎叔林), trước đó đang làm ''Chuyển vận sứ'' ở Diêm vận ty tỉnh [[Sơn Đông]], làm ''Trung thư xá nhân'', tiếp tục lo việc chế tạo quân khí.
 
Hiện mộ phần Lê Trừng (tức Hồ Nguyên Trừng), [[Lê Thúc Lâm]] và [[Lê Thế Ninh]] (黎世寧 con của Thúc Lâm, cũng làm quan cho triều Minh) đều ở tại thôn [[Nam An Hà]], thuộc thành phố [[Bắc Kinh]] ([[Trung Quốc]]) ngày nay <ref>Theo ''Minh Hiến Tông thực lục'', Quyển 66, tờ 4.A, trang 1329. Trung ương nghiên cứu viện, [[Đài Loan]], xuất bản năm [[1985]].</ref>.
 
==Đóng góp==
Dòng 101:
Bên cạnh đó, ông còn là nhà kỹ thuật quân sự tài ba. Theo sử liệu, khi còn ở trong nước, do nhu cầu quân sự, ông đã sáng chế và chỉ đạo chế tác súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)<ref>Sử thần [[Ngô Sĩ Liên]] đã mô tả loại thuyền này như sau: "Thuyền đinh sắt này có hiệu là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, chỉ mượn tiếng chở lương thôi, nhưng bên trên có đường sàn đi lại để tiện việc chiến đấu. Bên dưới thì hai người chèo một mái chèo" (Sách ở mục tham khảo, tr. 209).</ref> Cho nên sau này ông được vua Minh thu dụng để lo việc chế tạo súng<ref>Theo ''Từ điển bách khoa Việt Nam'', mục từ "Hồ Nguyên Trừng" và ''Đại cương lịch sử Việt Nam'' (Tập 1, tr. 255).</ref>.
 
Ngoài ra, ông còn là người lo việc đắp những con đê lớn, đào một số kênh và vét lại một số con sông nhằm phục vụ các hoạt động về giao thông, thủy lợi và quân sự. Đặc biệt, những công trình kiến trúc ở thời nhà Hồ, chẳng hạn như thành [[Tây Đô]] đồ sộ…sộ,… đều do ông chỉ huy xây dựng<ref>Theo Nguyễn Huệ Chi, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 638.</ref>.
 
Tên Hồ Nguyên Trừng đã được đặt cho một con đường ở thị trấn [[Phong Điền (thị trấn Thừa Thiên-Huế)|Phong Điền]] (tỉnh [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên-Huế]])<ref name="PD">[http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-21-NQ-HDND-nam-2012-dat-ten-duong-thi-tran-Phong-Dien-vb162288.aspx Nghị quyết số 21/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2012] của Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, khoá VI, kỳ họp thứ 5 về đặt tên đường thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đợt I.</ref> và ở hai quận [[Hải Châu]], [[Cẩm Lệ]] (thành phố [[Đà Nẵng]]).
Dòng 109:
*[[Nhà Hồ]]
*[[Nam Ông mộng lục]]
*[[Hồ Quý Ly|Hồ Quý ly]]
 
== Chú thích ==