Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Andrea Pirlo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Sửa chính tả
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 38:
| nationalteam-update =
}}
'''Andrea Pirlo''', <small>[[Order of Merit of the Italian Republic|Ufficiale OMRI]]</small>({{IPA-it|anˈdrɛ:a 'pi:rlo}}; sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979) là cựu [[cầu thủ bóng đá]] người [[Ý]]. Khi còn thi đấu anh thường ra sân với vai trò một [[Tiền vệ (bóng đá)#Tiền vệ kiến thiết từ tuyến dưới|Tiền vệ kiến thiết từ tuyến dưới]]. Với khả năng sáng tạo, quan sát cũng như kĩ thuật kiểm soát bóng, chuyền bóng và đá phạt thượng thừa, anh được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất từng chơi ở vị trí này.<ref>{{Chú thích webđm tuấn 2web|url=https://sportslens.com/born-again-how-the-deep-lying-midfielder-position-is-reviving-careers/32421/|tiêu đề=Born Again: How the Deep-Lying Midfielder Position is Reviving Careers|website=Sportslens.com}}</ref><ref name=":0">{{Chú thích web|url=https://www.acmilan.com/en/andrea-pirlo|tiêu đề=A.C. Milan Hall of Fame: Andrea đm tuấn 2chơi ở vị trí [[Tiền vệ (bóng đá)#Tiền vệ tấn công|Tiền vệ công]] cho đội bóng quê hương Brescia và đã giúp đội bóng này đoạt chức vô địch [[Serie B]], giành quyền lên chơi tại [[Giải bóng đá vô địch quốc gia Ý|Serie A]] vào năm 1997. Màn trình diễn tiềm năng đã giúp anh cập bến [[FC Internazionale Milano|Internazionale]] vào năm 1998, đội bóng yêu thích thuở nhỏ của cá nhân Pirlo. Tuy nhiên tại đây, thiếu hụt về tốc độ và sự cạnh tranh gắt gao đã không đem tới cho Pirlo nhiều cơ hội ra sân, và kết quả anh bị đem cho mượn vào năm 1999. Dẫu cho màn trình diễn ấn tượng trong khoảng thời gian ngắn tại Reggina và Brescia (một lần nữa) khi bị đem cho mượn, Pirlo vẫn không thể có được vị trí chính thức trong đội hình chính của Inter sau khi trở lại, và bị đem bán cho Đại kình địch [[A.C. Milan]] vào năm 2001. Tại Milan, Huấn luyện viên [[Carlo Ancelotti]] đã đẩy Pirlo xuống thi đấu ngay trước hàng hậu vệ, như một tiền vệ kiến thiết- lùi sâu, nhằm giúp anh có đủ khoảng trống về thời gian để tổ chức lối chơi của đội bóng. Pirlo tỏa sáng tại vị trí mới và dần phát triển thành một tiền vệ hàng đầu thế giới, giữ vai trò then chốt trong những thành công liên tiếp sau đó của Milan. Cùng Milan, Anh giành được hai danh hiệu [[Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu Âu|UEFA Champions League]] ([[UEFA Champion League 2002-03|2003]] và [[UEFA Champions League 2006-07|2007]]), hai [[Siêu cúp bóng đá châu Âu|Siêu cúp châu Âu]] ([[Siêu cúp châu Âu 2003|2003]] và [[Siêu cúp châu Âu 2007|2007]]), hai danh hiệu Serie A ([[Serie A 2003-04|2004]] và [[Serie A 2010-11|2011]]), [[Giải bóng đá Cúp câu lạc bộ thế giới|FIFA Club World Cup]] (2007), [[Siêu cúp bóng đá Ý|Supercoppa Italiana]] (2004) và [[Coppa Italia]] (2003).<ref name=":0" /> Pirlo sau đó chuyển tới thi đấu cho [[Juventus F.C.|Juventus]], một ông lớn khác của bóng đá Ý, theo dạng chuyển nhượng tự do vào năm 2011.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.goal.com/en/news/10/italian-football/2011/05/11/2481209/juventus-sign-ac-milans-andrea-pirlo-on-a-three-year|tiêu đề=Juventus sign AC Milan's Andrea Pirlo on a three-year contract|website=Goal.com}}</ref> Ngay lập tức, anh giúp đội bóng giải tỏa cơn khát danh hiệu từ năm 2003 và trở lại với vị thế hàng đầu quốc nội bằng bốn chức vô địch Serie A liên tiếp ([[Serie A 2011-12|2012]], [[Serie A 2012-13|2013]], [[Serie A 2013-14|2014]] và [[Serie A 2014-15|2015]]), hai Supercoppa Italiana ([[Supercoppa Italiana 2012|2012]] và [[Supercoppa Italiana 2013|2013]]) và Coppa Italia ([[Coppa Italia 2014-15|2015]]).<ref>{{Chú thích web|url=https://www.transfermarkt.com/andrea-pirlo/erfolge/spieler/5817|tiêu đề=Andrea Pirlo: Honours|website=Transfermarkt.com}}</ref> Sau hơn 20 mùa bóng thi đấu trong nước, Pirlo gia nhập [[New York City FC|New York City]] vào năm 2015<ref>{{Chú thích web|url=https://www.bbc.co.uk/sport/football/33415616|tiêu đề=Andrea Pirlo: New York City sign Juventus midfielder|website=Bbc.co.uk}}</ref>, trước khi thông báo giải nghệ vào tháng 11 năm 2017.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.theguardian.com/football/2017/nov/06/andrea-pirlo-retires-new-york-city-fc-italy|tiêu đề=Andrea Pirlo retires from football after leaving New York City FC|website=Theguardian.com}}</ref>
 
Ở cấp độ quốc tế, Andrea Pirlo đứng thứ 5 về số lần khoác áo trong lịch sử [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý|Đội tuyển Ý]], với 116 lần xuyên suốt từ năm 2002 tới 2015. Anh từng góp mặt trong đội hình của Đội tuyển trẻ lứa U15, U18 và U21, là đội trưởng của tập thể vô địch [[Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2000|UEFA Euro U21 2000]] cũng như là cầu thủ xuất sắc nhất và ghi nhiều bàn thắng nhất giải đấu. Anh có trận đầu tiên cho đội tuyển quốc gia vào tháng 11 năm 2002, và cùng đó dẫn dắt đội tuyển Olympic Bóng đá Ý đoạt huy chương đồng ở [[Thế vận hội Mùa hè 2004|Olympics 2004]]. Hai năm sau, Pirlo đóng vai trò quan trọng trong chức vô địch của Đội tuyển Ý ở [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2006|FIFA World Cup 2006]]; anh 3 lần trở thành ''[[Man of the Match]] (cầu thủ của trận đấu)'', trong đó có cả trận [[Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2006|Chung kết]], nhiều hơn bất kì cầu thủ nào, cùng với đó về thứ ba trong danh hiệu [[Các giải thưởng của Giải vô địch bóng đá thế giới#Quả bóng Vàng|cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu]]. Pirlo cũng góp mặt trong đội hình tiêu biểu của [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012|UEFA Euro 2012]], giải đấu mà anh đã dẫn dắt Đội tuyển Ý vào tới trận [[Chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu 2012|Chung kết]], và ba lần giành ''Man of the Match'' (nhiều nhất, ngang bằng với [[Andrés Iniesta]]). Ngoài ra, Pirlo còn cùng đội tuyển tham dự [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004|UEFA Euro 2004]], [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008|2008]], [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2010|FIFA World Cup 2010]], [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2014|2014]], [[Cúp Liên đoàn các châu lục 2009|FIFA Confederations Cup 2009]] và [[Cúp Liên đoàn các châu lục 2013|2013]].