Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
sửa lại cho đúng văn phong của Mỹ khi trích dẫn, và tránh tư tưởng dân tộc hẹp hòi , chủ nghĩa dân tộc thiển cận, và tầm nhìn hạn hẹp về bài viết, bảo đảm tính đồng bộ không mâu thuẫn thông tin, kiến thức pháp lý
Dòng 38:
 
Đây là tổ chức kế thừa [[Mặt trận Tổ quốc Việt Nam]] (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]] (được công nhận bởi các tài liệu sau năm 1975) nhằm chống lại Hoa Kỳ và [[Việt Nam Cộng hòa]] ở miền Nam Việt Nam, ra đời trong phong trào [[Đồng khởi]] của người dân ở miền Nam<ref>[http://www.mattran.org.vn/home/gioithieumt/gtc1.htm TÊN GỌI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC Việt Nam], Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trích: "gây ra chiến tranh đặc biệt, rồi chiến tranh cục bộ và sau cùng chúng đưa chiến tranh lan rộng ra toàn quốc làm trở ngại cho sự hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong cao trào đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam mới ra đời và trong dịp tổng tấn công Tết Mậu thân năm 1968 có thêm Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam" (Bài phát biểu của ông Xuân Thuỷ, Uỷ viên Ban Trù bị Đại hội hợp nhất 3 tổ chức Mặt trận - Đại hội 1 (tháng 2 năm 1977).</ref> Chủ trương của Mặt trận là: ''"Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới."''.<ref>[http://www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2086/skll.htm MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM Việt Nam VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC], TRẦN TRỌNG TÂN, Tạp chí Mặt Trận, số 86, 12/2010</ref>
 
Tổ chức này và chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này thành lập và hoạt động dựa trên sách lược thời chiến của Đảng Lao động nhằm đáp ứng cuộc chiến vừa có tính chất dân tộc vừa có tính chất quốc tế chống lại mưu đồ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn được Đảng đánh giá là "hòng ngăn chặn [[chủ nghĩa cộng sản]] lan tràn xuống [[Đông Nam Á]]", "đè bẹp các cuộc nổi dậy, đánh bại các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc"<ref>Văn kiện Đảng toàn tập, NXB CTQG,H.2002, tập 34 tr.172</ref> tìm mọi cách xóa bỏ sự tồn tại của chính quyền và quân đội cách mạng để chúng độc chiếm miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một nước riêng với một chế độ "quốc gia" thân [[Mỹ]], một nền kinh vế và văn hóa chịu sự chi phối của Mỹ"<ref>Văn kiện Đảng toàn tập, NXB CTQG,H.2002,tập 34, tr.577</ref>. Đảng đánh giá đây "là một cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đồng thời mang một số yếu tố nội chiến"<ref>Sđd, tập 35 tr.183</ref>, làm sao để "giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp [[Lào]] và [[Campuchia]] hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,<ref>Sđd, tập 35 tr.177</ref>, nó "gắn liền chặt chẽ với ba dòng thác cách mạng của thời đại",<ref>Sđd, tập 35 tr.181</ref>, "cách mạng thế giới ngày nay đang ở thế tiến công, phải phối hợp cuộc đấu tranh của ba dòng thác cách mạng để tiến công vào [[chủ nghĩa đế quốc]] đứng đầu là đế quốc Mỹ, đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận tiến tới đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc nhằm loại trừ nguồn gốc gây ra chiến tranh....Trong cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa [[chủ nghĩa xã hội]] và [[chủ nghĩa tư bản]] trên phạm vi thế giới, chúng ta nhấn mạnh lực lượng của ba dòng thác cách mạng...Chúng ta làm một cuộc chiến tranh cách mạng... không chỉ vì lợi ích của dân tộc mình mà còn giải quyết những mâu thuẫn có tính chất quốc tế. Cuộc kháng chiến của chúng ta gắn liền với các trào lưu cách mạng trên thế giới".<ref>Sđd, tập 35 tr34</ref>.
 
Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn và được hỗ trợ [[tài chính]], thiết bị và nhân sự bởi nhiều bộ phận dân cư tại miền Nam Việt Nam cũng như của chính phủ và [[Quân đội Nhân dân Việt Nam|quân đội]] của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Trước khi [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam|Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tồn tại như một chính thể và Ủy ban Trung ương hoạt động như là một chính phủ lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý các vùng do Mặt trận quản lý. Ban đầu, những người hoạt động trong lĩnh vực dân sự và chính trị [[Việt Minh]] vẫn được ở lại miền Nam để tham gia Tổng tuyển cử thống nhất đất nước được dự kiến diễn ra trong năm 1956 (Hiệp định Geneve quy định chỉ nhân viên quân sự là tập kết bắt buộc, còn cán bộ chính trị được ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị Tổng tuyển cử). Tuy nhiên, phía chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành [[Tố Cộng diệt Cộng|đàn áp những người Việt Minh và ủng hộ Việt Minh]]. Để phản kháng, các lực lượng Việt Minh tổ chức [[Phong trào Đồng khởi]]. Sau này, do yêu cầu về việc huy động rộng rãi các thành phần xã hội khác nhau và ủng hộ rộng rãi của quốc tế chống Mỹ và Việt Nam cộng hòa, thực hành "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân" theo chủ trương của Đảng Lao động, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Việc thành lập đã tạo vị thế mới cho lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam.<ref>[http://baotang.thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2015-12-22/20-12-1960-Mat-tran-Dan-toc-Giai-phong-mien-Nam-Viq1hiw1.aspx 20-12-1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập], Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá</ref><ref>[http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/mat-tran-dan-toc-giai-phong-mien-nam-trong-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc/8427.html Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước], Tạp chí Quốc phòng toàn dân, 17/12/2015</ref>
Hàng 52 ⟶ 54:
 
==Bối cảnh chính trị - xã hội==
Theo nhận định của người Mỹ, theo [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], 190.000 quân của Quân đội viễn chinh Pháp, và 900.000 thường dân (75% là người Thiên chúa giáo và số lượng còn lại thường là người thân của các binh sỹ Pháp hoặc Quốc gia Việt Nam) cùng quân đội Quốc gia Việt Nam di chuyển từ miền Bắc Việt Nam để vào miền Nam Việt Nam; bộ đội Việt Minh và các cộng sự kháng chiến, con em của quê hương họ... tổng số trên 140.000 người được tập kết ra bắc. Tuy nhiên, tập kết về chính trị không bắt buộc nên Việt Minh tiếp tục duy trì lực lượng chính trị của mình tại miền miền Nam. Với chính quyền Ngô Đình Diệm, việc một số lượng lớn người vào Nam là một thành công lớn, coi như bằng chứng phản kháng chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng chứng thuyết phục được người Mỹ, thứ hai lực lượng này sẽ hỗ trợ cho chính quyền của ông. Trên thực tế, CIA và chính quyền Ngô Đình Diệm đã lợi dụng niềm tin tôn giáo và gieo rắc nỗi sợ hãi để tăng số người vào Nam.<ref>Peter Hansen (2009). “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959”, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No. 3, pp. 173 -211</ref> Sau đó những người di cư nhận được viện trợ của Mỹ còn cao hơn dân địa phương (100 USD, cao hơn thu nhập bình quân hàng năm của người miền Nam).
[[Tập tin:Taquangbuukyhiepdinhgeneve.jpg|phải|nhỏ|300px|[[Tạ Quang Bửu]], phía đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và tướng Pháp Henri Delteil, Quyền Tổng Tư lệnh Lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, Phái đoàn Pháp đang ký Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam]]
[[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] dẫn đến Việt Nam tạm thời bị phân chia thành hai vùng tập kết quân sự. Phía Bắc vỹ tuyến 17 là nơi tập kết của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] còn phía Nam vỹ tuyến 17 là nơi tập kết của Quân đội Pháp cùng quân đội Quốc gia Việt Nam (lúc này Quân đội Quốc gia Việt Nam vẫn nằm dưới sự chỉ huy của Pháp). Tại miền Nam, với sự hậu thuẫn của người Mỹ, [[Thủ tướng]] [[Ngô Đình Diệm]] của chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]] đã gian lận trong [[Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955|cuộc trưng cầu dân ý]] để phế truất [[Nguyên thủ quốc gia|Quốc trưởng]] [[Bảo Đại]], thành lập chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]].<ref>[http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=28977&print=true Cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về lập lại hòa bình ở Việt Nam], Tạp chí Cộng sản, 4/9/2014</ref>
Hàng 74 ⟶ 76:
Hội đồng an ninh quốc gia của Mỹ đưa ra quan điểm ''"Hỗ trợ miễn phí Việt Nam để phát triển một chính phủ mạnh mẽ, ổn định, và hiến pháp để cho phép Việt Nam Tự Do, để khẳng định một sự tương phản ngày càng hấp dẫn đối với các điều kiện trong vùng Cộng sản hiện nay"''. Từ năm tài chính 1946 - năm tài chính 1961, Việt Nam đứng thứ ba bảng xếp hạng nước ngoài NATO được Mỹ hỗ trợ, và trên toàn thế giới xếp thứ bảy. 75% viện trợ kinh tế của Mỹ cung cấp trong cùng thời kỳ đã đi vào ngân sách quân sự của Chính phủ Việt Nam, và nhiều dự án dân sự đã lọt vào chi tiêu phục vụ quân sự. Tuy nhiên can thiệp của Mỹ ngày càng tăng vào chính phủ Việt Nam Cộng hòa dẫn đến việc Tổng thống Ngô Đình Diệm lên tiếng phản đối.
[[Tập tin:Gvnhamlet.jpg|nhỏ|trái|300px|Hình ảnh ấp chiến lược với hàng rào bằng tre và hào cạn cắm chông bao quanh]]
Hoa Kỳ ước tính được khuyết tật do sự phụ thuộc của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, vào các làng ở nông thôn. Theo Mỹ, có những bằng chứng tích lũy đủ để khẳng định nông dân oán giận chống lại Ngô Đình Diệm. Khi Kennedy nhậm chức 1960, 90% dân chúng nông thôn "tàn tạ và ốm yếu". Theo Hoa Kỳ, Tuyên ngôn của Mặt trận tháng 12 năm 1960 đánh vào sự bất mãn này trong dân chúng. Mặt trận Dân tộc Giải phóng dùng khẩu hiệu lăng nhục Ngô Đình Diệm (Mỹ-Diệm) do đó giành lại sự thần bí của [[chủ nghĩa dân tộc]] trong [[Chiến tranh Đông Dương]], kết hợp tâm lý bài ngoại tự nhiên của nông thôn Việt Nam. Hoa Kỳ bị xem là đáng khiển trách như một lực lượng hiện đại hóa một xã hội hoàn toàn truyền thống, như kẻ cung cấp vũ khí và tiền bạc cho một chính phủ đáng ghét, như là một người nước ngoài phá hoại hy vọng giải quyết vấn đề thống nhất đất nước bằng [[Hiệp định Genève, 1954]] và nhất là như một kẻ xâm lược muốn biến Việt Nam thành thuộc địa như người Pháp. Còn các quan chức địa phương thì "tham nhũng và tàn bạo" trong khi "Ngô Đình Diệm hứa nông dân nhiều, giao ít".
 
Trong chương trình di dân từ ven biển lên [[Tây Nguyên]], chỉ có 2% người dân miền Nam Việt Nam, đã hấp thụ 50% viện trợ cho nông nghiệp của Hoa Kỳ, và gây bất bình cho các tộc người Tây Nguyên. Tuy nhiên thất vọng và gây bất bình nhất là các "[[Ấp Chiến lược|Ấp chiến lược]]". Ông Ngô Đình Diệm đã sai lầm khi lên án tất cả những người dân tộc chủ nghĩa không ủngkhông hộtheo DiệmDiemist như là công cụ của [[Bảo Đại]] hay Pháp.
 
Chính tất cả những điều này đã kích thích các phong trào đấu tranh hòa bình đòi thống nhất đất nước của dân chúng ở miền Nam. Tuy nhiên, tất cả đều bị chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] đàn áp, nhất là những người Cộng sản và [[Việt Minh]] cũ còn ở lại miền Nam, những người mà Tổng thống Ngô Đình Diệm cho là đối thủ tiềm tàng nguy hiểm nhất. Bị đàn áp, những người cộng sản miền Nam cùng với những đồng minh của mình tập hợp và tổ chức ra có một số tổ chức vũ trang, bán vũ trang để chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa một cách tự phát. Từ giữa 1957, những người cộng sản miền Nam đã áp dụng chiến thuật du kích phù hợp học thuyết quân sự Mao - Giáp.
Hàng 91 ⟶ 93:
Theo Nghị quyết Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, được đăng tải trên báo Nhân dân khi đó "''nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới''... ''Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc''<ref>[http://www.daihocluathn.edu.vn/images/stories/Hoc%20lieu/Duong%20loi%20cach%20mang%20cua%20DCS%20VN/15._vkien_dcstt_t21-nq_cua_dai_hoi_dbtq_lan_iii_c7911a_dang_ldong_vn_10.9.1960.doc Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960], Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 10/2002</ref>. Nghị quyết của Đảng cũng nêu rõ: "''Mục đích của Đảng là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam''" (nghĩa là không xuất khẩu cách mạng sang các nước khác, và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là cách mạng dân tộc dân chủ, chứ chưa quyết định về đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội).
 
Về mặt pháp lý Mặt trận hoàn toàn độc lập với các tổ chức chính trị ở miền Bắc tuy nhiên cả Mặt trận và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau này có thêm [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam|Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] đều không phủ nhận sự tương đồng về chính trị cũng như mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.<ref>[https://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/mat-tran-dan-toc-giai-phong-mien-nam-viet-nam-ra-doi-su-kien-co-y-nghia-dac-biet-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM RA ĐỜI - SỰ KIỆN CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC], Tạp chí văn hóa Nghệ An, 21 Tháng 12 2010</ref> Bên cạnh đó, những người Cộng sản ở miền Nam cũng thành lập [[Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam]] để hoạt động công khai và ngăn cản sự đàn áp của chính quyền Sài Gòn.<ref>[http://www.quan11.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/Lists/Posts/Post.aspx?List=f73cebc3-9669-400e-b5fd-9e63a89949f0&ID=3825 15 năm Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam], Ủy ban Nhân dân quận 11</ref> Đảng này cũng là thành viên của Mặt trận. Trung ương Cục Miền Nam với tiền thân là Xứ ủy Nam Kỳ trở thành tổ chức đại diện Đảng Lao động trong Nam (do Hiệp định Genève không bắt buộc tập kết chính trị nên lực lượng chính trị này vẫn được ở lại miền Nam). Do sự đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm, Trung ương Cục hoạt động công khaibí mật nhưng phải chịu sự đàntheo ápdõi của chính quyền Ngô Đình Diệm, đến 1969 công khai rõ là đại diện Đảng Lao động tại miền Nam. Theo Mỹ, thì một nhánh của Trung ương Cục cũng là lãnh đạo Đảng Nhân dân Cách mạng. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt đại diện tại căn cứ địa của Mặt trận (và Chính phủ cách mạng lâm thời sau này), và Mặt trận (Chính phủ cách mạng lâm thời) đặt đại diện tại Hà Nội.
 
Trong tháng 11 và 12 năm 1960, Bộ Chính trị và Ban Bí thư gửi nhiều công điện cho Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu ủy khu V bàn về đấu tranh cách mạng ở miền Nam, bao gồm thành lập mặt trận và chính quyền cách mạng (điện của Bộ Chính trị Số 17-NB ngày 11-11-1960, điện của Bộ Chính trị Số 20-NB ngày 12-11-1960, điện của Ban Bí thư Số 34/NB ngày 16-11-1960, điện của Ban Bí thư Số 35/NB ngày 20-11-1960, điện của Ban Bí thư Số 40/NB ngày 24-11-1960, điện của Ban Bí thư số 49/NB ngày 3-12-1960 v.v.). Trong điện của Ban Bí thư ngày 24-11-1960, có đề ra chủ trương rút lại chủ trương trước đó của Bộ Chính trị về thành lập Chính phủ liên hiệp, sau khi cuộc đảo chính ở Sài Gòn không thành, "Trung ương đồng ý với Xứ ủy Nam Bộ là ở những nơi không còn đồn bốt và tề, ta sẽ lấy danh nghĩa Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam để bảo vệ quyền lợi nhân dân và giữ gìn an ninh trật tự. Ở những nơi chưa hoàn toàn giải phóng, ta vẫn dùng lối chính quyền hai mặt. Như thế nhân dân sẽ không bị hạn chế trong cuộc đấu tranh chính trị rộng rãi như hiện nay."<ref>Hanoi's Road to the Vietnam War, 1954-1965, Published August 2nd 2013 by University of California Press, p.74-75</ref>
Hàng 109 ⟶ 111:
# Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.
 
Từ khi ra đời, Mặt trận được tổ chức để thu hút tất cả các nhà hoạt động chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả những người theo và không theo chủ nghĩa cộng sản, với mục tiêu kết nối tất cả những người đối nghịch với "Mỹ Diệm". Về mặt pháp lý, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một phong trào giải phóng, liên minh của các đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội tại miền Nam và có lập trường, đường lối, chủ quyền kiểm soát riêng, không lệ thuộc chính sách thi hành ngoài Bắc, nhưng trước 1969 không có tính độc lập với Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Phía Mặt trận và [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam|Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] bác bỏ sự hợp pháp của chính quyền Sài Gòn.
 
Theo ước tính của Mỹ, trong vòng vài tháng thành lập, số thành viên của Mặt trận tăng gấp đôi, gấp đôi một lần nữa vào mùa thu năm 1961, và sau đó tăng gấp đôi vào đầu năm 1962, ước tính khoảng 300.000 người.
Hàng 132 ⟶ 134:
[[Hình:HuynhTanPhat.jpg|nhỏ|180px|Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát]]
 
Từ ngày [[6 tháng 6|6]] đến [[8 tháng 6]] năm [[1969]], Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là nòng cốt, cùng với [[Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam]] (một tổ chức thành lập năm 1968 ở các thành thị miền Nam, tuyên bố có đường lối độc lập nhưng phối hợp với Mặt trận), do [[Trịnh Đình Thảo]] làm chủ tịch, đã lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam|Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] để đối chọi với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ cách mạng lâm thời do [[kiến trúc sư]] [[Huỳnh Tấn Phát]] làm chủ tịch, và Hội đồng cố vấn Chính phủ do [[luật sư]] [[Nguyễn Hữu Thọ]] làm chủ tịch. Hội đồng làm việc với Chính phủ theo cơ chế hiệp thương, song thực ra có quyền hơn. Chính phủ thay Mặt trận thực hiện các chức năng hành chính nhà nước bao gồm đại diện và quản lý hành chính lãnh thổ. Ngay sau khi thành lập, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các nước Xã hội chủ nghĩa cùng nhiều nước thuộc [[Thế giới thứ Ba]] đã công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là người đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam. Ngay trong tháng 6 năm 1969 đã có 23 nước công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Tới cuối năm 1975, đã có hơn 50 nước trên thế giới (trong đó có nhiều nước tư bản chủ nghĩa) công nhận và lập quan hệ ngoại giao<ref>[http://119.15.167.94/qdndsite/vi-VN/61/43/tap-chi-quoc-phong-toan-dan/su-menh-lich-su-cua-chinh-phu-cach-mang-lam-thoi-cong-hoa-mien-nam-viet-nam-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc/80716.html Sứ mệnh lịch sử của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước]</ref>. Người Mỹ và chính quyền Sài Gòn không phân biệt được quyền lực của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với quyền lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref name="Trond Gilberg 1989, p.187">Trond Gilberg: Coalition Strategies of Marxist Parties. Duke University Press 1989, p.187</ref>. Bộ trưởng Quốc phòng [[Trần Nam Trung]], Trưởng ban Quân sự của Mặt trận cũng công khai là ủy viên Trung ương Đảng Lao động, thành viên Trung ương Cục, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng [[Đồng Văn Cống]] công khai là thành viên [[Trung ương Cục Miền Nam]] của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, trong khi Nguyễn Văn Cúc (Tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng, tham gia thành lập chính phủ) tuy không công khai là ủy viên Trung ương của Đảng Lao động, nhưng công khai là đại diện Đảng Nhân dân Cách mạng trong Trung ương Cục Miền Nam của Đảng Lao động (theo báo cáo tháng 12 năm 1969 về "Ủy ban quân sự Miền Nam", một số thành viên của Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam cũng công khai là thành viên Trung ương Cục).<ref name="twc6175"/>
Ngày từ khi [[Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972|Hội nghị Paris]] bắt đầu với sự tham gia của 4 bên, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã phải chấp nhận sự tồn tại của [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam|Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam]]. Ngày [[27 tháng 1]] năm [[1973]], [[Hiệp định Paris 1973|Hiệp định Paris]] được ký kết. Hiệp định công nhận tại miền Nam của nước Việt Nam độc lập, thống nhất có tồn tại hai chính phủ, hai vùng kiểm soát, hai quân đội và sẽ tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần trước khi tổng tuyển cử cả nước để thống nhất về mặt nhà nước với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.<ref>[https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Hiep-dinh-Cham-dut-chien-tranh-lap-lai-hoa-binh-cua-Viet-Nam-Hoa-ky-23327.aspx HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM CHÍNH PHỦ VIÊT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA VÀ CHÍNH PHỦ HOA KỲ], Chính phủ Việt Nam</ref> Tuy nhiên, do chính quyền Sài Gòn có các hành động quân sự để phá hoại Hiệp định nên Chính phủ cách mạng lâm thời buộc phải tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đã giành được quyền kiểm soát miền Nam vào năm [[1975]].
 
Hàng 195 ⟶ 197:
Trong các tổ chức tham gia Mặt trận, đảng bộ miền Nam của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] có tên công khai là [[Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam]] (tuyên bố tách từ Đảng bộ miền Nam của đảng Lao động) có vai trò quan trọng nhất, "linh hồn" Mặt trận. Trong suốt quá trình tồn tại [[Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam]] công khai quan hệ thân hữu với [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] nhưng sau chiến tranh Đảng Cộng sản Việt Nam xác nhận nó thực chất chỉ là đảng bộ của Đảng Lao động Việt Nam ở miền Nam, do Trung ương Đảng, Khu ủy Trị Thiên (sau khi tách khỏi Khu V, trực thuộc Trung ương), Khu ủy Khu V (sau khi tách khỏi Trung ương Cục miền Nam, trực thuộc Trung ương), Trung ương cục miền Nam và các Khu ủy trực thuộc (địa bàn B2 cực nam Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trở vào, sau khi tách Khu V về Trung ương) lãnh đạo. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định các lực lượng chính trị tập kết tại chỗ do Hiệp định Genève (1954) quy định.
 
Ngày 18/1/1962 trên sóng [[Đài Tiếng nói Việt Nam]] tuyên bố Đảng Nhân dân cách mạng đã thành lập ngày 1/1/1962, là tổ chức có lập trường chống thực dân, đế quốc và phong kiến. Tuy không đề cập trực tiếp là tổ chức cộng sản, nhưng tuyên bố ủngtuyên hộtruyền [[chủ nghĩa Marx - Lenin]] tại miền nam Việt Nam. Trung ương Cục miền Nam và các khu ủy lãnh đạo trực tiếp, điều lệ đảng do Trung ương Đảng Lao động đề ra. Đứng đầu là bí thư Trung ương Cục, và Võ Chí Công đại diện đảng tại Mặt trận. Đảng Dân chủ trên cơ sở một phần Đảng Dân chủ năm 1944, do Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Tấn Phát đứng đầu, và Đảng Xã hội Cấp tiến thành lập năm 1961 do Nguyễn Văn Hiếu đứng đầu, đều là đảng viên cộng sản. Theo tài liệu của Mỹ, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam có liên hệ với Trung ương Đảng ở Hà Nội, còn Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội Cấp tiến, là đối tác của Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam<ref name="Trond Gilberg 1989, p.187"/>.
 
Đảng Nhân dân Cách mạng theo điều lệ là đại diện giai cấp công - nông miền Nam Việt Nam.
 
==Mối quan hệ với Đảng Lao động Việt Nam==
Trong suốt chiến tranh Việt Nam, [[Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam]] luôn tuyên bố công khai rõ ràng rằng họ là là một đảng cộng sản ở miền Nam, là tiên phong lãnh đạo Quân giải phóng Miền Nam thông qua Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Việt nam, thành viên chủ chốt của Mặt trận, cùngtheo chungtài mụcliệu đíchMỹ với Đảngđược Laolúc độngđó Việtquan Namhệ với thốngđảng nhấtLao đấtđộng nước,trên mangtình lạihuynh hòađệ bìnhcộng cho Việt Nam, bảo vệ độc lập và dân chủ trong cả nướcsản. Theo tài liệu Mỹ có được lúc đó quan hệ với đảng Lao động trên tình huynh đệ cộng sản. Tuy nhiên Đảng Lao động công khai cử đại diện tham gia Trung ương Cục Miền Nam, là bộ phận đặt ở phía nam của Trung ương Đảng Lao động (Hiệp định Geneve không bắt buộc việc tập kết về chính trị). TuyNhưng nhiêntheo nhận định của phía Mỹ, thực chất Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam chỉsựcánh đạitay diện công khai tại miềnphía Nam của Đảng Lao động Việt Nam, nhằm thực hiệncông cụ chủ yếu thông qua đó Hà Nội kiểm soát cuộc nổi dậy chống lại chính quyền Sài Gòn"Mỹ-Diệm". Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc tại lễ truy điệu Hồ Chí Minh vẫn khẳng định sựvai ủng hộtrò của Đảng Lao động đối với phong trào cách mạng miền Nam<ref>[http://bqllang.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1605:di-u-van-c-a-ban-ch-p-hanh-trung-uong-d-ng-lao-d-ng-vi-t-nam-do-d-ng-chi-le-du-n-bi-thu-th-nh-t-d-c-t-i-l-truy-di-u-tr-ng-th-h-ch-t-ch-ngay-9-thang-9-nam-1969&catid=99&Itemid=743&lang=vi Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969]</ref>. Theo Đề cương Cách mạng miền Nam, tháng 8/1956, Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: ''"Phong trào cách mạng miền Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng cả nước. Đẩy mạnh cách mạng miền Nam là thực hiện một trong ba nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam và công cuộc cách mạng ở miền Bắc cùng nhằm mục đích chung là giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước"'' hay nói cách khác là Đảng lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam có chung mục đích, lý tưởng.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books-410620158553746/index-3106201585104466.html | tiêu đề = Đề cương cách mạng miền Nam | tác giả = | ngày = 6 tháng 10 năm 2015 | ngày truy cập = 8 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = [[Tạp chí Cộng sản|Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam]] | ngôn ngữ = }}</ref>
 
Theo tài liệu của Mỹ, Trung ương Cục Miền Nam là Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam (sau đổi thành Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam Việt Nam), nhưng năm 1969 khi thành lập Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Trung ương Cục Miền Nam lại là đại diện của Đảng Lao động Việt Nam (được hiểu như có trụ sở tại Miền Bắc) tại miền Nam Việt Nam, và độc lập với Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng).
 
Theo nhận định của Mỹ dựa vào các tin tình báo, giới lãnh đạo cộng sản tại miền Bắc đứng đằng sau hỗ trợ sự hình thành Mặt trận và các cuộc nổi dậy ở miền Nam. Họ hỗ trợ Mặt trận đề ra chiến lược quân sự lẫn chính trị cho các nhà lãnh đạo Mặt trận tại miền Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ và Việt Nam Cộng hoà vẫn không nắm rõ sự tác động của Miền Bắc đến mức nào giai đoạn trước năm 1959 do ViệtMiền MinhBắc chủphủ trươngnhận đấuhoàn tranhtoàn chínhsự trịcan thiệp côngtrong khaigiai ủngđoạn hộđầu, đườngnhưng lốicông đấukhai tranhlãnh chínhđạo trịgiai kếtđoạn hợp1959-1961 đấu tranhhỗ trợ trangvào từgiai nămđoạn 1959sau.
 
Theo Xã luận báo Nhân dân ngày 3 Tháng Hai 1968 nhân thành lập Đảng vẫn viết "''Miền Nam, tiền tuyến, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng", "những chiến công lừng lẫy của đồng bào và chiến sĩ miền Nam sẽ được ghi vào cuốn sử vàng của dân tộc Việt Nam ta và của Đảng ta''" và kêu gọi các đảng viên "''chúng ta hãy góp phần to lớn nhất của mình vào cuộc chiến đấu chung của toàn quân và toàn dân đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà...''" cho thấy Mặt trận lãnh đạo nhưng cũng khẳng định sựvai ủng hộtrò của Đảng Lao động Việt Nam với cách mạng miền Nam.
 
===Về chiến lược===
Theo nhận định của Mỹ, Mặt trận tuyên truyền tranh thủ thành phần dân chúng bất mãn, và thành lập lực lượng "Phong trào giải phóng nhân dân Việt Nam", một đơn vị quân sự bao gồm các cựu chiến binh Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, tù nhân chính trị chạy thoát, và các cán bộ cộng sản (1957). Một ví dụ sau này là "Hội Phật giáo Việt Nam-Campuchia", một trong các tổ chức tuyên truyền cho khẩu hiệu "Hòa bình và Hòa Hợp dân tộc." Trên thực tế, đối tượng tham gia và ủng hộ Mặt trận còn bao gồm những người ủng hộ tiến trình thống nhất đất nước, không có thiện cảm với cuộc chiến xâm lược của Mỹ tại Việt Nam cũng như phản đối sự đàn áp của chínhq quyền Sài Gòn.<ref>[http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/mat-tran-dan-toc-giai-phong-mien-nam-trong-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc/8427.html Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước], Tạp chí quốc phòng toàn dân, 17/12/2015</ref>
 
Theo nhận định của Mỹ, trước năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị giằng xé giữa chính sách thân Liên Xô "cùng tồn tại hòa bình", và chính sách thân Trung Quốc cổ vũ cho cho bạo lực cách mạng vô sản cho dù Trung Quốc không thích viện trợ nhiều cho Việt Nam. Tuy nhiên, về chiến lược và hành động trên thực tế, Việt Nam hoàn toàn độc lập với Liên Xô và Trung Quốc. Chủchủ trương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đấu tranh bằng sức mình là chính, kết hợp kêu gọi sự ủng hộ của các nước Xã hội chủ nghĩa, cư xử khéo léo để cả Liên Xô và Trung Quốc đều viện trợ cho Việt Nam. Về kinh tế, miền Bắc cũng đạt được thành tích về kinh tế từ 1959, nhất là công nghiệp.
 
Đến năm 1959, theo nhận định của Mỹ, có vẻ như có khả năng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chọn để theo đuổi một chiến lược "súng và bơ", và thu được viện trợ cần thiết của Liên Xô và Trung Quốc. Về thực tế, sau khi chiến lược đấu tranh chính trị không có tác dụng, các cơ sở cách mạng bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp mạnh mẽ và nguy cơ bị xóa sổ, lực lượng Cộng sản ở các hai miền tiến hành thay đổi chiến lược, chuyển từ chỉ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Nghị quyết 15 năm 1959 và Nghị quyết đại hội Đảng III, Đảng Lao động công khai hỗ trợ cho cuộc chiến ở Miền Nam.
 
Trong suốt thời gian chiến tranh Miền Bắc luôn khẳng định là chỉ chi viện toàn diện về mọi mặt để hỗ trợ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bao gồm cả phối hợp chỉ đạo quân sự chứ không can thiệp trực tiếp vào chính sách đối nội - ngoại của Mặt trận<ref>[http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=35427&print=true Hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước], Tạp chí cộng sản, 30/9/2015</ref>. Sau chiến tranh, nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn khẳng định cách mạng miền Nam là một bộ phận của cách mạng cả nước, Đảng lãnh đạo tonaf bộ, nhưng trong vài năm đầu tiên các hoạt động vũ trang do các cấp chỉ huy địa phương tự quyết định ngoài các chỉ thị từ trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại miền Bắc.
 
Philippe Devillers, nhà phân tích người Pháp nhận định: những người kháng chiến buộc phải hành động, cho dù có sự hỗ trợ từ Hà Nội hay không, bởi các đồng đội của họ bị bắt, bị bỏ tù và bị tra tấn. Ông này công bố tài liệu của ''Nambo Veterans of the Resistance Association'', tháng 3/1960, Mặt trận tuyên bố kêu gọi "đấu tranh" để ''"giải phóng mình từ sự phục tùng Mỹ, loại bỏ tất cả các căn cứ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, trục xuất các cố vấn quân sự Mỹ..."'' và kết thúc ''"chế độ thực dân và chế độ độc tài phát xít của nhà Ngô"''. Ông cũng nhận định ''"chính quyền Sài Gòn cuối cùng đã phá hủy sự tin tưởng của người dân, mà nó đã giành được trong những năm đầu, và thực tế đã đưa họ vào cuộc nổi loạn và tuyệt vọng"''. Arthur Schlesinger, Jr. cũng có nhận định tương tự.
Hàng 221 ⟶ 223:
Ủy ban giám sát thi hành Hiệp định lại không thể kiểm tra hết các cơ sở để khẳng định khả năng hai bên sử dụng vũ lực. Năm 1959 và 1961 Ủy ban này đã công bố rằng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã trắng trợn vi phạm các quy định kiểm soát vũ khí của Hiệp định Geneva, cho dù lưu ý vấn đề lật đổ ở miền Nam Việt Nam.
 
Chính phủ Hoa Kỳ, trong sách trắng về Việt Nam năm 1961 và 1965, đã đổ lỗi cho sự nổi dậy trên là "xâm lược" của Hà Nội mặc dù theo phía Việt Nam khái niệm [[xâm lược]] không thể được áp dụng ở một đất nước không bị chia cắt (Hiệp định Geneve quy định giới tuyến quân sự tạm thời không được coi là biên giới quốc gia), tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là công cụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đối phương đáp lại các cuộc nổi dậy bắt đầu như là một cuộc nổi loạn chống lại chính phủ áp bức của Ngô Đình Diệm, và chỉ từ cuối năm 1960, khi Hoa Kỳ sẽ cam kết nguồn lực lớn để giúp chính phủ Diệm trong cuộc chiến của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thúc đẩy cuộc chiến với khẩu hiệu giải phóng miền Nam Việt Nam khỏi sự xâm lược của Mỹ.
 
===Về tổ chức===
Hàng 228 ⟶ 230:
Tổng thể cấu trúc lực lượng cộng sản tại miền Nam theo phía Mỹ gồm 3 thành phần:
 
* Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam: trựcthay tiếpmặt cho côngĐảng khaiLao Động Việt Nam tại miền Bắc chỉ đạo phong trào chống Mỹ và chính quyền SàiViệt Nam Cộng Gònhoà tại miền Nam. Trung ương Cục miền Nam là bộ phận của Đảng Lao động Việt Nam tại miền Nam bao gồm một số hoạt động công khai là một ủy ban điều hành của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, với đội ngũ nhân viên có liên quan để phối hợp các nỗ lực chiến tranh. Đảng Lao động Việt Nam thực hiện việc chỉ đạo công cuộc chống Mỹ tại miền Nam thông qua liên lạc với cấp lãnh đạo tại Văn phòng Trung ương Cục Miền Nam và các Khu ủy trực thuộc Trung ương. Tất cả các quyết định chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam đều bí mật, chỉ công khai trong đội ngũ những người cách mạng, các đảng anh em. Các chính sách liên quan đến xã hội chủ nghĩa chỉ được phổ biến trong đảng viên và quần chúng theo cách mạng, chứ không công khai bên ngoài. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng bí mật để tạo ra một tổ chức hoàn toàn độc lập chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.<ref name="twc6175">Lịch sử Văn phòng Trung ương Cục miền Nam 1961 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2005</ref>
* Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là tập hợp của các nhóm chống Diệm và những người thừa kế, có cảm tình với Việtcộng Minhsản. Vài nhóm thuộc Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, một số không thuộc, hay có sự liên kết lỏng lẻo hoặc cảm tình. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là vỏ bọc chính trị và tập hợp lực lượng rộng rãi cho sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam thông qua Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam đối với toàn bộ phong trào cách mạng tại miền Nam Việt Nam. Mặt trận thành lập còn để bảo đảm tính pháp lý cho cuộc chiến ở miền Nam và thu hút những thành phần xã hội không thuộcsử Đảngdụng học thuyết cộng sản nhưngđể tuyên chungtruyền mặc dù có mục tiêu chống Mỹ, thực hiệnchính quyền Sài Gòn, thống nhất đất nước. Về phía Đảng Lao động Việt Nam, họ gọi đây là chiến lược ''"Tuy hai mà một, tuy một mà hai"''. Theo đó, ''"hai về mặt pháp lý; một về mặt chính trị, đường lối, lý tưởng, sách lược và hành động"''. Ho cho rằng điều này là phù hợp với thực tế là Việt Nam vẫn là một nước thống nhất, chỉ tạm thời bị chia cắt thành hai vùng tạp kết quân sự và Hiệp định Geneve không cấm việc Đảng Lao Động Việt Nam có cơ sở ở miền Nam.<ref name="nhandan.com.vn">[http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/14969902-.html Hội nghị Paris về Việt Nam và sách lược ngoại giao "tuy hai mà một, tuy một mà hai"], Báo Nhân dân, 26/04/2005</ref> Đối với mặt quân sự, quân đội dưới sự lãnh đạo chính trị của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam còn Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời lãnhquản đạo vềhành mặt chiến đấuchính.
* [[Quân giải phóng miền Nam Việt Nam]] bao gồm lực lượng tình nguyện ngoài Bắc vào và lực lượng được tuyển mộ tại chỗ do Trung ương Cục nhận chỉ đạo từ Tổng quân ủy. Bên cạnh một ban lãnh đạo song song làm "vỏ bọc" (Mặt trận, Chính phủ) còn có các thành viên Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam giữ vị trí chỉ huy quan trọng nhất trong quân đội, và giám sát hoạt động tất cả các nhóm khác đến cấp thôn, bản. [[Quân giải phóng miền Nam Việt Nam]] có binh sỹ xuất thân từ cả hai miền đất nước, tất cả cùng sinh hoạt và chiến đấu, không hề có sự phân biệt Nam - Bắc. Phía Mỹ thường nhầm lẫn lực lượng chính quy là của miền Bắc chỉ huy, còn lực lượng địa phương, du kích của miền Nam chỉ huy. Những sai lầm này được viết nhiều trong sách vở nghiên cứu của Mỹ. Thực chất tất cả đều dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà bên ngoài là Mặt trận. Sau khi Cộng hòa miền Nam Việt Nam thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lực lượng này hợp nhất với Quân đội nhân dân Việt Nam.
 
Theo Douglas Pike năm 1970, Quân đội nhân dân Việt Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có 500.000 trong đó 125.000 tại miền Nam Việt Nam và Campuchia, 67.000 ở Lào, ngoài ra lực lượng bán quân sự 250.000, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam có 80.000 thành viên, các thành viên khác của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt Nam tổng cộng 300.000, Quân giải phóng Miền Nam 190.000,... trong khi chống Quân đội Việt Nam Cộng hòa tổng cộng 1,4 triệu, Mỹ 434.000 và quân đồng minh.
Đảng Lao động Việt Nam chia chiến trường miền Nam thành 5 khu vực B-5 - Quảng Trị (giáp vĩ tuyến 17), B4- Bình Trị Thiên - Huế, B3 - Tây Nguyên, B1 - Quân khu 5, gồm các tỉnh Quảng - Đà (nay thuộc các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), B2 - Nam Bộ (từ cực Nam của Nam Trung bộ và Tây Nguyên vào - tương ứng từ Quảng Đức, Tuyên Đức và Ninh Thuận, gồm Khu VI, VII, VIII, IX, X, Sài Gòn - Gia Định)<ref>[http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/22445702-giai-ma-ky-hieu-phien-hieu-phuc-vu-tim-kiem-quy-tap-hai-cot-liet-si.html Giải mã ký hiệu, phiên hiệu phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ], Báo Nhân dân, Thứ Hai, 24/02/2014</ref>, có sự thay đổi ranh giới và phân chia theo thời gian. Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ huy toàn bộ quân Giải phóng trên toàn miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hà Nội giám sát tất cả nhưng trực tiếp phụ trách các khu Quảng Trị, Trị Thiên, Khu V và Tây Nguyên. Về mặt chính trị, phân vùng có khác, Khu ủy Trị Thiên và Khu ủy Khu V (địa bàn rộng hơn Khu V về quân sự) nhận chỉ thị trực tiếp từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chứ không phải từ Trung ương Cục miền Nam. Tại mỗi Khu, Khu ủy thực hiện chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn Khu. Ban Thống nhất thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điều phối các vấn đề phức tạp.<ref>Quá trình phát triển hệ thống tổ chức ban thống nhất Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Xuân Yến, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, Số 1 -2011, Tr.31-36.</ref>
 
Đảng Lao động Việt Nam chia chiến trường miền Nam thành 5 khu vực B-5 - Quảng Trị (giáp vĩ tuyến 17), B4- Bình Trị Thiên - Huế, B3 - Tây Nguyên, B1 - Quân khu 5, gồm các tỉnh Quảng - Đà (nay thuộc các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), B2 - Nam Bộ (từ cực Nam của Nam Trung bộ và Tây Nguyên vào - tương ứng từ Quảng Đức, Tuyên Đức và Ninh Thuận, gồm Khu VI, VII, VIII, IX, X, Sài Gòn - Gia Định)<ref>[http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/22445702-giai-ma-ky-hieu-phien-hieu-phuc-vu-tim-kiem-quy-tap-hai-cot-liet-si.html Giải mã ký hiệu, phiên hiệu phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ], Báo Nhân dân, Thứ Hai, 24/02/2014</ref>, có sự thay đổi ranh giới và phân chia theo thời gian. Về hình thức, Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ huy toàn bộ quân Giải phóng trên toàn miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hà Nội giám sát tất cả nhưng trực tiếp phụ trách các khu Quảng Trị, Trị Thiên, Khu V và Tây Nguyên. Về mặt chính trị, phân vùng có khác, Khu ủy Trị Thiên và Khu ủy Khu V (địa bàn rộng hơn Khu V về quân sự) nhận chỉ thị trực tiếp từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chứ không phải từ Trung ương Cục miền Nam. Tại mỗi Khu, Khu ủy thực hiện chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn Khu. Ban Thống nhất thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điều phối các vấn đề phức tạp.<ref>Quá trình phát triển hệ thống tổ chức ban thống nhất Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Xuân Yến, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, Số 1 -2011, Tr.31-36.</ref>
 
Theo nhận định của Mỹ, Trung ương Cục miền Nam có vai trò nổi bật trong việc giám sát lực lượng vũ trang tại Nam Bộ (B2). Trên danh nghĩa, Quân Giải phóng là một phần của một phong trào dân tộc giải phóng. Theo nhận định của Mỹ, trong thực tế nó đã được kiểm soát bởi Trung ương Cục Miền Nam, mà lần lượt được kiểm soát bởi Đảng Lao động. Quân đội Nhân dân Việt Nam khi vào các địa bàn này cũng chịu sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.<ref name="tnt"/>
 
Theo định nghĩa thông thường của Mỹ, Quân giải phóng để chỉ Quân đội thuộcdo phíaMặt cáchtrận mạngchỉ ở địa bàn B2. Nhưng cũng có định nghĩa khácđạo. Sự phân biệt của phía Mỹ có tính chất chiến lược trong quân sự chứ không vì các mục đích thuần túy chính trị. Thực chất tất cả lực lượng vũ trang do Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo, trực tiếp là các Khu ủy và Quân ủy từng quân khu hay Trung ương cục Miền Nam và Quân ủy Miền, Khu. Các tổ chức khác của Mặt trận đều do Trung ương Đảng lãnh đạo và đều tôn vinh Hồ Chí Minh làm lãnh tụ, dù cơ cấu tổ chức và tuyên bố bên ngoài độc lập với hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa <ref>Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II (1945-1977), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1970</ref><ref>Nguyễn Hữu Thọ, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - mấy bài học lớn, Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, Nhà xuất bản Lao động 2005</ref>.
 
Trên thực tế cơ cấu tổ chức của phía cách mạng phức tạp và biến chuyển hơn các tin tức từ phía đối phương khai thác được. Tựu trung, để tạo cho lực lượng cách mạng ở miền Nam một vị thế chính trị độc lập với vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nâng cao vị thế của họ trên bình diện quốc tế, có lợi cho cách mạng, nhất là trong thu hút lực lượng, tranh thủ ủng hộ quốc tế, và trên bàn đàm phán, tránh mang tiếng Miền Bắc "xâm lược"... nên cơ cấu tổ chức của lực lượng cách mạng ở miền Nam độc lập với các thiết chế ở miền Bắc, bao gồm cả Đảng, Mặt trận, chính quyền, quân đội,... Sau 30/4/1975 mới công khai đảng Nhân dân Cách mạng là bộ phận của Đảng Lao động, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] là bộ phận của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]. Riêng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thì sáp nhập với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau các hội nghị hiệp thương, bầu cử và đại hội thống nhất.<ref name="tnt"/>
 
===Về lãnh đạo===
Trong thời gian đầu, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận Chính phủ Cáchmiền mạngNam lâm thờiđịa Cộngvị hòatương đương (mà họ gọi là chính phủ miền Nam, Việthay nhà đương cục Miền Nam, nhằm thi hành Hiệp nghị), và không công nhận chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Các cuộc đấu tranh ở Miền Nam giai đoạn này Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cơ bản không kiểm soát được hoàn toàn, mà do các đảng bộ miền Nam tự chỉ đạo, có khi vượt ngoài chỉ đạo của Trung ương. Sau Hội nghị Trung ương 15 và sau này ra đời Mặt trận, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận Việt Nam Cộng hòa và công khai ủng hộ cho phía cách mạng Miền Nam.
 
Trong thời gian đầu khi lực lượng chống Mỹ ở miền Nam còn yếu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ ủng hộ về mặt chính với phong trào cách mạng ở miền Nam, nhưng sau thì Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng vũ lực để đàn áp phong trào Cách mạng, miền Bắc bắt đầu ủng hộ phong trào cách mạng ở miền Nam nổi dậy vũ trang bằng việc chi viện qua đường mòn Hồ Chí Minh. Tuy nhiên ngoài tham gia giúp đỡ về mặt quân sự để hoàn thành mục tiêu chung, miền Bắc không thừa nhận chỉ đạo về đường lối chính sách đối ngoại đối nội của phái Mặt trận, tạo uy thế có tính độc lập trong chính sách của phía Mặt trận, nhằm thu hút thêm quần chúng ủng hộ cách mạng, phân hóa kẻ thù, và tạo thêm sự ủng hộ từ các lực lượng chính trị khác trong và ngoài nước, nhất là các nước nằm ngoài phe xã hội chủ nghĩa. Về phía đối phương, họ lúc thì khẳng định Mặt trận là do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập để phản đối "Miền Bắc xâm lược", nhưng nhiều khi họ luôn khai thác sự đa dạng về mặt chính trị, ý thức hệ của các thành phần tham gia Mặt trận cùng vẻ ngoài độc lập của Mặt trận nhằm lôi cuốn các thành phần chính trị phi cộng sản từ bỏ sự hợp tác với người cộng sản, chia rẽ nội bộ.
 
Về hợp nhất Mặt trận, các đoàn thể và chính quyền là mang tính nguyên tắc trên cơ sở pháp lý. Sau 30/4/1975, trên thực tế tồn tại hai chính quyền có lãnh thổ riêng và chính sách riêng, nhưng lúc này Đảng Lao động công khai chỉ đạo cả Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Trong thời gian còn chiến tranh thì các chỉ đạo chính sách với Mặt trận và Chính phủ Cách mạng là mang tính bí mật, đôi khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời có tuyên bố không giống nhau thể hiện sách lược của đảng. Do Chính phủ khi đặt trụ ở tại Tây Ninh hay Campuchia, hay Quảng Trị, hay phần lớn thành viên ở ngoài Bắc, do đó các chỉ thị từ Trung ương Đảng là trực tiếp hay thông qua Trung ương Cục Miền Nam. Các lãnh đạo Mặt trận và chính quyền là đảng viên công khai hay bí mật nhiều lần tham gia vào các cuộc họp ra quyết định của Đảng liên quan công tác của họ.
Hàng 251 ⟶ 255:
Đảng lãnh đạo toàn bộ (sau này được công khai), nhưng đường lối chính sách của Mặt trận có tính độc lập bề ngoài vì Mặt trận gồm nhiều thành phần, nhưng chịu chỉ đạo bí mật từ các cấp lãnh đạo Đảng theo nguyên tắc xác lập trong nội bộ Mặt trận. Các lãnh đạo của Mặt trận nhiều người không công khai là đảng viên cộng sản (trừ các vị công khai là lãnh đạo Đảng Nhân dân Cách mạng), sau này mới công khai, nhằm tạo ra một vị thế đa thành phần tranh thủ ủng hộ quốc tế, và thu hút lực lượng rộng rãi hơn, nhất là các thành phần ở đô thị, tầng lớp trên tư sản dân tộc hay trí thức, hay tín đồ và chức sắc các tôn giáo,... Điểm này rất giống với Mặt trận Việt Minh trước đây, nhiều đảng viên trong Mặt trận hoạt động danh nghĩa trí thức hay của đảng Dân chủ và đảng Xã hội.
 
Nhìn chung tổ chức của phía cách mạng đều do Đảng lãnh đạo toàn bộ như sau này thừa nhận. Tuy nhiên bên cạnh người cộng sản còn có những nhân sĩ, trí thức và thành viên các tổ chức chính trị - xã hội khác nên đôi khi xảy ra bất đồng quan điểm giữa các lãnh đạo cộng sản và những nhân vật thuộc các khuynh hướng chính trị khác. Đôi khi đối phương tìm cách chia rẽ miền Bắc với mặt trận, hay tập trung sự phân chia quân đội cách mạng ở hai miền (thực tế bên phía cách mạng đưa ra sách lược về tính độc lập hình thức bên ngoài). Người cộng sản đã khéo léo lôi cuốn những người thuộc các khuynh hướng chính trị khác vào Mặt trận để tạo ra bộ mặt dân tộc - dân chủ cho Mặt trận, để sử dụng các lực lượng khác vào mục tiêu chính trị của mình trong khi vẫn hoàn toàn chi phối mọi hoạt động của Mặt trận, chỉ đạo thống nhất về mọi mặt. Mặt khác sự chỉ đạo toàn bộ này chỉ công bố sau chiến tranh, thể hiện rõ sách lược phân hóa kẻ thù, "đánh lạc hướng" và tranh thủ lực lượng của Đảng. Càng về cuối cuộc chiến thì Mặt trận càng thể hiện tư tưởng ủng hộ chủ nghĩa cộng sản của mình qua các khẩu hiệu tuyên truyền về xã hội chủ nghĩa, hay các biểu tượng Lenin, Hồ Chí Minh,...
 
===Về quân sự===
Hàng 257 ⟶ 261:
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân giải phóng miền Nam]], một lực lượng quân sự mà nòng cốt là những người từng tham gia [[Việt Minh]] đồng thời bao gồm cả một số người từng là thành viên [[Cao Đài]], [[Hòa Hảo]], [[Bình Xuyên]].
 
Phía đối phương có khi phân chia Quân giải phóng (với Quân đội nhân dân) để chỉ lực lượng ở B2 là căn cứ vào thẩm quyền chỉ huy, vì từ B2 trở vào là do Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam chỉ huy - là chỉ huy Quân giải phóng công khai khi Quân giải phóng mới thành lập. Trên thực tế, Bộ tư lệnh Miền chỉ chỉ đạo B2 là địa bàn xa, Trung ương cần một ban chỉ đạo trực tiếp nên thiết lập Trung ương Cục Miền Nam để chỉ đạo nhưng Trung ương Cục vẫn chịu sự chỉ đạo thông suốt từ Trung ương Đảng. Cơ cấu tổ chức của lực lượng cộng sản trên địa bàn này cũng khác biệt với các địa bàn do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Tại B2 có các thiết chế tương tự như ở Trung ương như Trung ương có Trung ương Đảng thì B2 có Trung ương Cục, Trung ương có Bộ Tổng tư lệnh, thì B2 có Bộ Tư lệnh Miền, Trung ương có quân ủy Trung ương thì B2 có quân ủy Miền... dưới nữa mới đến các Khu hay quân khu.
 
Theo nhận định của Mỹ, lực lượng quân chủ lực gồm từ cả ngoài Bắc vào, được trang bị vũ khí hạng nặng, tỷ lệ đảng viên cao, trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông, được huấn luyện chu đáo. Quân địa phương thường chiến đấu gần tỉnh nhà của họ, không là cần đảng viên, không cần phải biết chữ, dù hoạt động chuyên nghiệp. Du kích hầu hết là nông dân nghèo hoạt động bán thời gian ở địa phương, tham gia xây dựng công sự, vận chuyển khí tài, đánh địch... chịu chỉ đạo của quân giải phóng ở mức độ thấp hoặc của Mặt trận. Đôi khi có sự thiếu hụt nhân lực phải bổ sung nhưng ít có hoán chuyển và quân chủ lực luôn bảo đảm tinh nhuệ nhất. Lính miền Bắc khi vào Nam vẫn giữ phù hiệu, dù có cá nhân độn vào lực lượng tiểu đoàn Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Các đơn vị từ miền Bắc di chuyển sâu hơn về phía Nam cần phối hợp nhiều hơn với Quân Giải phóng và các lực lượng tại địa phương. Về công khai tất cả các lực lượng vũ trang tại miền Nam đều do Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy. Việc phân chia Quân đội nhân dân Việt Nam và quân Giải phóng miền Nam cũng một phần nhằm mục đích chia rẽ, và yêu cầu quân ngoài Bắc vào rút về bắc vĩ tuyến 17, nhưng chủ yếu để có chiến thuật quân sự thích hợp, vì quân chủ lực từ miền Bắc vào được huấn luyện tốt hơn lực lượng du kích tại chỗ. Trên thực tế, nhận định sai lầm của Mỹ đã dẫn đến những thất bại trên chiến trường khi Quân Giải phóng bao gồm cả người miền Bắc và người miền Nam nên có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân cả hai miền, thông thuộc địa phương hơn lính Mỹ.
 
Riêng tại các đô thị, do đặc trưng địa hình và dân cư đông, cho nên Quân Giải phóng không tổ chức lực lượng chính quy hay du kích, mà họ đào tạo riêng lực lượng "biệt động thành" chuyên tác chiến trong thành phố và thị xã. Họ chính là những cư dân sinh sống ngay tại đô thị, có căn cước hợp pháp và hoạt động bí mật; được đào tạo bài bải theo lối đánh vừa đặc công vừa du kích. Biệt động thành hoạt động nhờ vào dân và các cơ sở nuôi quân bí mật trong thành phố, nếu tách khỏi dân thì mạng lưới này bị xóa sổ. Tiếp viện cho họ là các lực lượng thanh niên xung phong đến từ ven đô và ngoại thành.
 
Theo nhận định của Mỹ, trong khi miền Bắc và đồng minh của họ cố gắng ngụy trang tổ chức thực sự chỉ đạo chiến tranh, điều quan trọng cần lưu ý là cả Quân Giải phóng và các chiến binh thường xuyên của quân miền Bắc đều thuộc một lực lượng. Mỗi bộ phận đều có đặc tính riêng biệt của địa phương, cách tuyển dụng, các nhiệm vụ, nhưng tựu trung họ đều được kiểm soát bởi bộ chỉ huy ở Hà Nội. Theo phía Việt Nam, đây là một phần của chiến lược "tuy hai mà một, tuy một mà hai" của họ. Chiến lược này xuất phát từ việc đất nước không bị chia cắt về chính trị hay thành hai quốc gia riêng mà chỉ bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự, nêntuy chuyệnnhiên lựcmiền lượng của họ tập hợp được ngườiBắcxuấtquyền thânchi từviện cả haicho miền là chuyện hiển nhiênNam.
 
Theo tài liệu của đảng cộng sản, khi đó chưa công khai, chỉ thị của Tổng quân ủy Trung ương chỉ rõ "Quân giải phóng Miền Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo,..."<ref>Hồ Sĩ Thành- Trần Thị Nhung, Bộ tư lệnh Miền, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh</ref>
 
==Hoạt động==
Hàng 270 ⟶ 276:
Đường lối, chính sách, cương lĩnh, tuyên ngôn đưa ra của Mặt trận trong thời gian chiến tranh luôn có sự thay đổi tùy theo tình hình, miễn có lợi cho phía Cách mạng. Tuy nhiên nhìn chung không thừa nhận chính quyền Sài Gòn là chính quyền hợp pháp, và chính thể Việt Nam Cộng hòa là chính thể độc lập. Quan điểm của Mặt trận là Miền Nam chưa có độc lập, chính thể và chính quyền Việt Nam Cộng hòa chỉ là bù nhìn tay sai cho [[Hoa Kỳ|Mỹ]], còn Mỹ là kẻ đi xâm lược, thi hành chính sách thực dân mới.
 
Mặt trận luôn cho rằng miền Nam chưa có độc lập, nên gọi đó là cuộc chiến tranh giải phóng. Việt Nam dân chủ cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và sau này thì Nhà nước thống nhất lại hay dùng từ Kháng chiến chống Mỹ, để khẳng định Việt Nam đã độc lập từ 1945, và chống các kẻ thù xâm lược một nước đã có chủ quyền, hay dùng từ cách mạng dân tộc dân chủ, hay cách mạng tư sản dân quyền, để chỉ một giai đoạn trong chính sách của Đảng cộng sản. Giai đoạn cách mạng tiếp theo là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là cách dùng từ theo quan điểm hai giai đoạn cách mạng của Lenin rút ra từ thực tiễn đấu tranh giành chính quyền tại Nga.
 
Đường lối của họ là chống Mỹ, và trong một số hoàn cảnh chấp thuận thương lượng với phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tùy thuộc chính quyền đó do ai lãnh đạo, và hoàn cảnh cụ thể. Mặt trận còn chủ trương chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa mà theo họ là chế độ độc tài, đòi thi hành dân sinh dân chủ, bao gồm cả cải cách ruộng đất, xây dựng Miền Nam là một chính thể tự do dân chủ và đi đến hiệp thương với miền Bắc thống nhất nước nhà. Mặt trận thông qua nhiều tổ chức khác do họ điều khiển, tổ chức biểu tình chống chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]], tuyên truyền kêu gọi "Hòa bình và Hòa giải dân tộc" để thu hút quần chúng, cô lập và phân hoá đối phương.
Hàng 279 ⟶ 285:
 
==Lãnh thổ==
Mỹ ước tính vào giữa 1962, miền Nam Việt Nam có khoảng 2.500 làng nông thôn, chiếm khoảng 85% tổng dân số. Mặt trận Giải phóng kiểm soát hiệu quả 20% số làng, ước tính 9% dân số nông thôn, tổng diện tích những ngôi làng này bao phủ một tỷ lệ lớn hơn nhiều ở vùng nông thôn. Ngược lại, chế độ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát có hiệu quả khoảng 47% dân cư nông thôn và 33% số làng, phần lớn nằm ở vùng ven của các thành phố lớn, thị xã và các khu vực dân cư đông đúc hơn dọc theo các đường chính. Trong 47% vùng nông thôn và 44% dân cư nông thôn còn lại, không phải là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không phải là Mặt trận Giải phóng kiểm soát có hiệu quả, mặc dù Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ảnh hưởng dường như lớn hơn trong hầu hết những ngôi làng này. Tuy nhiên, do sự yếu kém của Việt Nam Cộng hòa (đặc biệt là sau cuộc đảo chính năm 1963), tỷ lệ kiểm soát của Mặt trận Giải phóng tăng lên nhanh chóng. Theo tài liệu của Mỹ, tới năm 1965, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã kiểm soát lên đến 50% của vùng nông thôn ở miền Nam Việt Nam bây giờ, ở một số mức độ do Việt Cộng kiểm soát.
 
Theo tài liệu phía cách mạng, năm 1962 phía cách mạng kiểm soát 76% lãnh thổ và 50% dân số toàn miền Nam. Từ 1964 đến 1965, vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam <ref>Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 4 Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1966</ref>. Năm 1968, Mặt trận đã quản lý 10 triệu trong tổng số 14 triệu người miền Nam, trong đó "''4 triệu sống trong vùng giải phóng và ít nhất 6 triệu rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát''"<ref>Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1978, tr.201</ref>.
Hàng 287 ⟶ 293:
[[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] là một chính thể lãnh đạo thực tế miền Bắc Việt Nam từ 1954, nhưng tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Điều này được ghi nhận trong Lời nói đầu và Điều 1 Hiến pháp năm 1959. Đồng thời, Hiệp định Gevene (1954) và Hiệp định Paris (1973) đều quy định giới tuyến quân sự tạm thời tại vỹ tuyến 17 không được coi là biên giới quốc gia, do đó chủ quyền của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] không bị giới hạn ở vỹ tuyến 17. Bên cạnh đó, việc [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 trên phạm vi cả nước đã cho thấy tính chính danh của nhà nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] và chủ quyền của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] không bị giới hạn ở miền bắc.<ref>LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM (1946-1960) - TẬP 1, chương V, trang 120</ref>
 
Trong suốt những năm 1954-1975, [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] không hề thừa nhận [[Việt Nam Cộng hòa]] là một chính thể hợp pháp ở miền Nam Việt Nam nhưng luônban đầu coi là thựcchính quyền (gọi là "chính quyền miền Nam", hay "nhà đương cục miền thểNam") kế thừa các nghĩa vụ của [[Liên hiệp Pháp]] tại Việt Nam sau năm 1954, trong đó có nghĩa vụ tổ chức Tổng tuyển cử để thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc tại Việt Nam. Sau khi [[Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972|Hội nghị Paris]] được tổ chức, [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tiếp tục không công nhận Việt Nam Cộng hòa mà coi [[Cộng hòa miền Nam Việt Nam|Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] là người đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam.<ref name="nhandan.com.vn"/><ref>[http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&articleId=2901 Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấu tranh thống nhất đất nước, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ (1969-1972) thất bại], Chính phủ Việt Nam</ref> Trong những năm 1954-1959, [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] liên tục đề nghị [[Việt Nam Cộng hòa]] thực hiện trách nhiệm tổ chức Tổng tuyển cử đồng thời đưa ra các bằng chứng về việc Việt Nam Cộng hòa không tuân thủ Hiệp định Genève, đàn áp những người yêu nước và đấu tranh hòa bình ở miền Nam để thống nhất đất nước. Do lập trường như vậy nên đến năm 1959, sau khi thấy khả năng không thể thống nhất trong hòa bình, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam ngầm ủng hộ cho khởi nghĩa ở Miền Nam thì mới công bố Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định Việt Nam là một nước không thể chia cắt và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể có địa vị hợp pháp, chủ quyền hợp pháp toàn Việt Nam bằng cách viện dẫn Cách mạng Tháng Tám, bầu cử Quốc hội năm 1946 và Hiến pháp 1946 mà Hiến pháp 1959 là kế thừa.
 
Nghị quyết Quốc hội khóa I kỳ 11 ngày 31-12-1959 (khi đó vẫn có các đại biểu Miền Nam được bầu năm 1946 đủ tư cách) - khi đó vẫn xem là Quốc hội Việt Nam thống nhất - khẳng định "''Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiêu biểu cho tính chất thống nhất của nước ta và tiêu biểu cho ý chí tranh đấu của nhân dân cả hai miền Nam - Bắc''". Những ghi nhận này khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể duy nhất có quyền lực pháp lý trên toàn lãnh thổ Việt Nam và công khai không thừa nhận Việt Nam Cộng hòa là một nhà nước hợp pháp, miền Nam chưa được giải phóng.
 
Hiến pháp năm 1959 cũng ghi nhận Đảng Lao động là lãnh đạo cách mạng trong Lời nói đầu, nhưng không quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội trong điều khoản nào như Hiến pháp 1980 và 1992 sau này nhằm để ngỏ khả năng hiệp thương với chính quyền Miền Nam và động viên nhưng người không có lập trường cộng sản nhưng chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đứng về phía cách mạng. Đến 1960 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn công khai đưa ra đề nghị thương lượng lần cuối (khẩu hiệu đấu tranh hòa bình thống nhất vẫn được khẳng định tại Hiến pháp, và cả văn kiện công khai của đại hội III Đảng Lao động, hưng các văn kiện bí mật chỉ lưu hành nội bộ thì ủng hộ cho giải pháp khởi nghĩa và lập đoàn chi viện vào Nam như Nghị quyết 15 năm 1959,...).
 
Phía Việt Nam Cộng hòa trước đó ban hành Hiến pháp riêng 1956 và bầu cử riêng tại miền Nam, cũng thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền này dựa trên Quốc gia Việt Nam trước đây và tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam. ĐiềuTất nàycả đượccác phíatuyên bênbố kiachủ xemquyền của mộthai cửphía chỉđều thểchuẩn hiệnbị sựcho "hiếumột cuộc chiến" chuẩn bị chothể "Bắcxảy tiến"ra.
 
Sau Đồng khởi, thì một vùng do Đảng Lao động và cách mạng kiểm soát ở Miền Nam hình thành, đồng thời miền Bắc bắt đầu viện trợ cho phong trào kháng chiến tại miền Nam một lượng lớn vũ khí, quân trang, quân dụng và cử nhiều cán bộ, binh sĩ vào Nam chiến đấu. Trong khi Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đưa ra những chứng cớ mà họ cho là Miền Bắc vi phạm Hiệp địnhnghị, là "xâm lược", do đó chủ trương của Đảng Lao động là thành lập một Mặt trận lấy danh nghĩa giải phóng Miền Nam để kiểm soát các vùng đất này, và tách đảng bộ miền Nam lập Đảngmột Nhânđảng dândanh Cáchnghĩa mạng(tương tự với đảng Xã hội và Dân chủ). Mặt trận lấy danh nghĩa là Việt Nam đã độc lập năm 1945 và kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng miền Nam chưa có độc lập để đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam - tính độc lập vềhình pháp lýthức với Miền Bắc không rõ ràng bằng khi lập chính thể Cộng hòa Miền Nam như sau này. Mặt trận thừa nhận miềnMiền Bắc đã được giải phóng, và Việt Nam Dândân chủ Cộngcộng hòa là chính thể hợp pháp cả nước. Tuy nhiên tính chất độc lập về pháptương đối được đưa ra khi văn kiện Mặt trận khẳng định Mặt trận sẽ hiệp thương với Miền Bắc để thống nhất. Tính độc lập này chỉ là tương đối và khớp với văn kiện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khi khẳng định chủ quyền với toàn lãnh thổ). Chương trình hành động của Mặt trận (điểm IX):
 
''Yêu cầu bức thiết của đồng bào trên toàn quốc là phải hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam chủ trương thống nhất nước nhà từng bước bằng phương pháp hoà bình, trên nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, cùng nhau bàn bạc mọi hình thức và biện pháp có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam. Trong khi nước nhà chưa thống nhất, chính phủ hai miền cùng nhau thương lượng cam kết không tuyên truyền chia rẽ dân tộc, không tuyên truyền chiến tranh, không dùng binh lực đối với nhau. Thực hiện trao đổi kinh tế văn hoá giữa hai miền. Cho nhân dân hai miền được tự do đi lại buôn bán, thăm viếng, tự do gửi thư từ cho nhau.''
 
Sau khi Mặt trận ra đời thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công khai khẳng định Mặt trận đại diện nhân dân miền Nam, nhưng không sửa lại Hiến pháp liên quan vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Điều này phù hợp với thực tế một đất nước có nhiều chính phủ (tương tự như nhà nước liên bang, nhà nước liên hiệp, theo đó mỗi vùng lãnh thổ trong một quốc gia có 1 chính phủ riêng), Mặt trận là đại diện nhân dân chứ không phải đại diện chủ quyền, có đường lối riêng. Hồ Chí Minh trong trả lời phỏng vấn của Daily Worker năm 1965 khẳng định Mặt trận có đường lối riêng của họ, phù hợp với hoàn cảnh mỗi miền, nhưng Việt Nam là một<ref>Douglas Pike. War, Peace, and the Viet Cong-The MIT Press; First Edition edition (ngày 15 tháng 4 năm 1969)</ref>. Sau này Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức xem [[Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] là một chính thể và nhà nước độc lập với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng chỉ giới hạn ở Miền Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không sửa lại Hiến pháp. Tuy vậy Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đặt quan hệ bình thường như thiết lập đại sứ hay quan hệ ngoại giao với các nước khác mà đặt đại diện như mô hình nhà nước liên bang. Mục tiêu hiệp thương thống nhất hai nhà nước luôn thể hiện trong các tuyên bố hai phía và hai bên đặt đại diện tại Hà Nội và Tây Ninh thể hiện ý chí này.
 
Bên cạnh đó, Đảng Lao động bề ngoài vẫn thừa nhận Đảng Nhân dân Cách mạng có tính độc lập tuy nhiên sau này thừa nhận Trung ương Cục là đại diện Đảng Lao động tại miền Nam. Lập trường quốc tế nói chung đa số vẫn thừa nhận Việt Nam có hai chính quyền ở hai miền theo mô hình nhà nước liên bang chứ không nói là hai nước theo cách hiểu thông thường, và sau nhiều nước thừa nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam là chính quyền hợp pháp tại Miền Nam. Do lập trường của Mặt trận và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là Miền Nam chưa có độc lập nên họ sử dụng cụm từ "giải phóng", và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam dùng từ "kháng chiến" để chỉ cuộc kháng chiến hai miền nam - bắc vì một mục tiêu chung là bảo vệ độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ. Sau đó cụm từ "kháng chiến" lại phổ biến, do lập trường của Việt Nam là Việt Nam độc lập từ 1945 và kháng chiến để chống lại một nước đã có chủ quyền (không phải chưa có độc lập như các văn kiện Mặt trận thời chiến tranh).
 
Lập trường Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phía Mặt trận thường giống nhau, trừ việc Mặt trận không hề đề cập đến các chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Năm 1955 và năm 1960 Miền Bắc cho thành lập các khu tự trị, có ý nghĩa trong chính sách lôi kéo người dân tộc thiểu số miền Nam đứng về phía cách mạng (khi đó chính quyền Việt Nam Cộng hòa phủ nhận sự tự trị mà Pháp trao cho các dân tộc thiểu số). Phía Mặt trận và Chính phủ Cách mạng Lâm thời cũng cho thành lập các Ủy ban tự trị dân tộc thuộc địa phận vùng kiểm soát của mình, trong thời gian chiến tranh như miền Bắc có khu tự trị cho các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên sau 1975 thì do vấn đề Trung Quốc, Khmer Đỏ và các vấn đề an ninh... nên các khu tự trị, ủy ban tự trị ở miền Bắc lẫn miền Nam đều bị giải tán, quyền chỉ đạo được thống nhất ở trung ương.
 
Về phía Mặt trận, họ chỉ công khai các chức danh do hiệp thương bầu cử ra (của Mặt trận hay chính quyền các cấp), hay chức vụ của các tổ chức, Đảng (cả đảng Nhân dân cách mạng) trong Mặt trận, cũng như quân giải phóng (Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang,...), nhưng trước khi [[Hiệp định Paris]] ký kết không công khai các chức danh hay cán bộ thuộc về phía Đảng Lao động chỉ định (như ủy viên Trung ương hay Bộ Chính trị hay trong Trung ương Cục, và các cấp lãnh đạo đảng ở địa phương, cũng như nhiều chỉ huy quân đội,...) để thể hiện rõ lập trường Miền Bắc chỉ chi viện giúp đỡ miền Nam và phối hợp quân sự, kể cả cử cán bộ chỉ huy Quân giải phóng, lực lượng cách mạng, chứ không chi phối chính sách của phía Mặt trận do sự hiệp thương của các lực lượng tham gia quyết định, mặt khác thể hiện nguyên tắc bí mật trong thời chiến.
 
==Quan hệ ngoại giao==
Hàng 313 ⟶ 319:
 
== Đánh giá ==
Nhìn chung, các chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và sự lãnh đạo của Đảng Lao Động chỉ thường được công khai với thế giới sau này, và tùy theo thực tế, có khi đảng không hoàn toàn chi phối được tất cả các chính sách các Mặt trận do có nhiều tổ chức tham gia ngoại trừ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này. Do đó tính chất vào thời điểm ra đời của các Mặt trận kể trên không hoàn toàn như tổ chức đảngquan niệm Việt Nam hiện nay và như các lực lượng chống đối Đảng Cộng sản đánh giá do không có đủ tư liệu.
 
Nếu so với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì [[Việt Minh]] trước đây cũng là một liên minh gồm nhiều đảng phái, tổ chức và cá nhân bao gồm cả Đảng Cộng sản (nòng cốt). Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương giải tán và Việt Minh trở thành liên minh chính trị, là "bình phong" của những người cộng sản trong một hai năm đầu, chủ yếu nhất giai đoạn trước kháng chiến toàn quốc, còn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là một liên minh trong đó những người cộng sản làm nòng cốt.
 
Theo đánh giá của [[William Colby]], cựu giám đốc [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] và người từng chỉ huy [[Chiến dịch Phụng Hoàng|Chiến dịch Phượng Hoàng]], để làm mờ đi lý lịch đảng viên cộng sản và thu hút nhiều người tham gia hơn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được coi là một phong trào của riêng người Nam Việt Nam sẵn sàng đón nhận mọi đảng phái và những nhân vật miền Nam mà tên tuổi được tung ra như là những người lãnh đạo tổ chức thì trên thực tế họ không có mấy quyền hành kiểm soát mặt trận cũng như những người trong mặt trận Việt Minh thời [[Chiến tranh Đông Dương]]. Quyền chi phối Mặt trận chủ yếu thuộc về chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]<ref>William Colby, Một chiến thắng bị bỏ lỡ, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, trang 110</ref>. Tuy nhiên, trên thực tế, những lãnh đạo của tổ chức thực sự là người lãnh đạo phong trào chống Mỹ, họ là những người Cộng sản với vỏ bọc phi Cộng sản.