Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Stefan Wyszyński”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Tham khảo: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:10.9892748 using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin chức sắc Kitô giáo Chi tiết
|type = cardinal
|danh xưng trước = [[Đấng đáng kính]] - Hồng y <br>
|tên = Stefan Wyszyński
|danh xưng sau =
|chức vụ = [[Giám mục đô thành|Tổng giám mục]] [[Tổng giáo phận Warszawa]] <br> (1948 - 1981) <Br> [[Giám mục đô thành|Tổng giám mục]] [[Tổng giáo phận Gniezno]] <Br> (1948 - 1981)
|hình = Portret Stefana Wyszyńskiego z Auli KUL.jpg
|cỡ hình = 200px
|liên kết hình =
|chú thích hình =
|Khẩu hiệu = "SOLI DEO"
|giáo hội = [[Công giáo Rôma]]
 
|chức vụ I= Tổng giám mục Warszawa
|giáo tỉnh = [[Giáo tỉnh Warszawa]]
|đô thành = <!-- như trên -->
|tổng giáo phận =
|giáo phận =
|tòa =
|bổ nhiệm=Ngày 12 tháng 11 năm 1948
|tựu nhiệm =
|hết nhiệm = Ngày 28 tháng 5 năm 1981
|tiền nhiệm = [[August Hlond]]
|kế nhiệm = [[Józef Glemp]]
 
|chức vụ 2= Tổng giám mục Gniezno
|giáo tỉnh 2= [[Giáo tỉnh Gniezno]]
|đô thành 2= <!-- như trên -->
|tổng giáo phận 2=
|tòa 2=
|bổ nhiệm 2= Ngày 12 tháng 11 năm 1948
|tựu nhiệm 2=
|hết nhiệm 2= Ngày 28 tháng 5 năm 1981
|tiền nhiệm 2= [[August Hlond]]
|kế nhiệm 2= [[Józef Glemp]]
 
|đối kháng =
|các chức khác = Giám mục chính tòa [[Giáo phận Lublin]] (1946 - 1948)
<!---------- Truyền chức --------->
|thụ phong = Ngày 3 tháng 8 năm 1924
|tấn phong = Ngày 12 tháng 5 năm 1946
|thăng hồng y = Ngày 12 tháng 1 năm 1953
|cấp bậc =
<!---------- Thông tin cá nhân ---------->
|tên khai sinh =
|ngày sinh = Ngày 3 tháng 8 năm 1901
|nơi sinh =
|ngày mất = Ngày 28 tháng 5 năm 1981
|nơi mất =
|nơi an táng =
|quốc tịch = {{Flagicon|Ba Lan}} [[Ba Lan]]
|tôn giáo =
|nơi sinh trưởng =
|cha mẹ =
}}
{{danh xưng hồng y
|image = [[Tập tin:Wyszynski Coat of Arms.svg|giữa|150px]]
|danh hiệu = Đức Hồng y
|trang trọng =
|sau khi chết = Đức Cố Hồng y
|thân mật = Cha
|khẩu hiệu = ''SOLIDEO''
|tòa =
}}
 
'''Stefan Wyszyński''' (1901 - 1981) là một [[Hồng y]] người Ba Lan của [[Giáo hội Công giáo Rôma]]. Ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Gniezno]] và [[Tổng giáo phận Warsaw]], Ba Lan từ năm 1948 đến năm 1981. Ông hiện được tôn phong [[Đấng đáng kính]], là danh hiệu của bước thứ hai trong tiến trình bốn bước đến tuyên phong [[Hiển thánh]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma]].<ref name=g>[http://www.gcatholic.org/dioceses/diocese/wars0.htm Metropolitan Archdiocese of Warszawa, Poland]</ref>
 
Hàng 8 ⟶ 73:
Sau khoảng thời gian 22 năm làm linh mục, Stefan Wyszyński được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa [[Giáo phận Lublin]] vào ngày 25 tháng 3 năm 1946. Lễ tấn phong cho tân giám mục được tổ chức sau đó vào ngày 12 tháng 5 cùng năm. Chủ phong nghi thức giám mục là Hồng y [[August Hlond]], S.D.B., Tổng giám mục Tổng giáo phận Gniezno và hai vị phụ phong là Giám mục [[Karol Mieczysław Radoński]], giám mục chính tòa Włocławek và giám mục phụ tá [[Giáo phận Częstochowa]] [[Stanislao Czajka]].<ref name=h/> Cùng năm này, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan và đảm trách vai trò này cho đến năm 1953. Ông đảm nhận chức vị này lần thứ hai từ năm 1956 cho đến khi qua đời.<ref name=g/>
 
Hơn hai năm sau khi trở thành giám mục, ngày 12 tháng 11 năm 1948, Tòa Thánh thăng giám mục Stefan Wyszyński làm Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Gniezno]] và Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Warszawa]]. Năm năm sau đó (ngày 12 tháng 1 năm 1953)<Ref name=g/>, ông được thăng tước Hồng y Nhà thờ Santa Maria in Trastevere nhưng không thể nhận sứ vụ chính thức cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1957 vì đang thụ án tại nhà tù chế độ Cộng sản Ba Lan. Các giáo sĩ Công giáo gần như bị bắt giữ đồng loạt vào năm 1953 tại các nước như Ba Lan, Croatia, Hungary và Tiệp Khắc. Bản thân Wyszyński cũng bị bắt vào năm này.<ref name=v/>
 
Hồng y Wyszynski từng đảm nhận vai trò Hồng y Giáo chủ Ba Lan và là một trong những người ủng hộ Giám mục trẻ tuổi [[Karol Wojtyla]], sau trở thành Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]. Khi công bố tân giám mục Wojtyla, Hồng y Wyszyński đã tuyên bố ''[[Habemus papam]]'' (“Chúng ta đã có Giáo hoàng”). Lời tuyên bố này gây ngỡ ngàng vì câu nói trên chỉ để công bố tân giáo hoàng sau một [[mật nghị hồng y]].<ref name=v/>