Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ukraina”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 8:
Chú thích bản đồ = Vị trí Ukraine (xanh) trên thế giới |
Bản đồ 2 = Europe-Ukraine (disputed territories, 2).jpg |
Chú thích bản đồ 2 = Vị trí
Quốc ca = {{vunblist | Ще не вмерла Україна | {{native phrase|uk|"[[Shche ne vmerla Ukraina]]"|italics=off}}}}''Ukraine bất diệt''</small><br /><center>[[Tập tin: Anthem of Ukraine instrumental.ogg]]</center> |
Ngôn ngữ chính thức = [[tiếng Ukraina]] |
Dòng 30:
Phần nước = 7 |
Dân tộc = Năm 2001: {{unbulleted list
| 77,2% [[người
| 17,3% [[người Nga]]
| {{nowrap|5,5% khác/không công khai}}
Dòng 91:
'''Ukraina''' ([[tiếng Ukraina]]: Україна, [[tiếng Anh]]: ''Ukraine,'' chuyển tự Latinh: ''Ukrayina'',phiên âm [[tiếng Việt]]: '''U-crai-na''') là một [[quốc gia]] thuộc khu vực [[Đông Âu]]. Ukraine giáp với [[Nga|Liên bang Nga]] về phía Đông, giáp với [[Belarus]] về phía Bắc, giáp với [[Ba Lan]], [[Slovakia]] và [[Hungary]] về phía Tây, giáp với [[Rumani]] và [[Moldova]] về phía Tây Nam và giáp với [[biển Đen]] và [[biển Azov]] về phía Nam. Thành phố [[Kiev]] là thủ đô của Ukraina.
Lịch sử của Ukraina cũng như lịch sử Nga bắt đầu từ khoảng [[thế kỷ IX]] của [[Công Nguyên]] khi vùng đất này trở thành trung tâm của nền văn minh Đông Slav với quốc gia [[Nga Kiev|Rus Kiev]] hùng mạnh tồn tại đến [[thế kỷ XII]]. Khi đế quốc Mông Cổ của [[Thành Cát Tư Hãn]] trỗi dậy và bành trướng, [[Nga Kiev|Rus Kiev]] bị Mông Cổ đánh tan và chịu cảnh nô lệ suốt nhiều thế kỷ. Sau khi Mông cổ suy yếu, lãnh thổ của
Ukraina là một quốc gia thống nhất gồm 24 tỉnh, một nước cộng hòa tự trị ([[Cộng hòa Tự trị Krym]]) và hai thành phố có địa vị pháp lý đặc biệt là [[Kiev]] và [[Sevastopol]]. Nước này theo thể chế cộng hòa bán tổng thống.
Dòng 98:
{{main|Lịch sử Ukraina}}
=== Buổi đầu lịch sử ===
Khu định cư của con người trong lãnh thổ
=== Thời kỳ huy hoàng của Kiev, sự khai sinh ra nước Nga, Belarus và Ukraine ===
Dòng 104:
{{chính|Rus Kiev}}
[[Tập tin:Kievan Rus en.jpg|nhỏ|trái|Bản đồ nước Rus Kiev hồi thế kỷ XI Trong thời kỳ huy hoàng của Kiev, vùng đất [[Rus Kiev|Nga]] bao trùm hầu hết Ukraine, Belarus, và tây Nga hiện nay.]]
Trong thế kỷ thứ IX, đa phần
Thời kỳ huy hoàng của nước Rus Kiev bắt đầu với sự cai trị của [[Vladimir Vĩ đại]] (980–1015), ông đã [[Sự rửa tội của nước Rus Kiev|đưa Rus' theo Thiên Chúa giáo Byzantine]]. Trong thời cầm quyền của con trai ông, [[Yaroslav Thông thái]] (1019–1054), nước Rus Kiev đạt tới cực điểm phát triển văn hoá và quyền lực quân sự.<ref name="Columbia"/> Tiếp sau đó là sự tan rã ngày càng nhanh của quốc gia khi các cường quốc trong vùng lại xuất hiện. Sau một cuộc nổi dậy cuối cùng dưới thời cai trị của [[Vladimir Monomakh]] (1113–1125) và con trai ông [[Mstislav I của Kiev|Mstislav]] (1125–1132), nước Rus Kiev cuối cùng tan rã thành nhiều công quốc sau cái chết của Mstislav.
Dòng 110:
Trong thế kỷ XI và XII, những cuộc xâm lược thường xuyên của các bộ tộc [[người Turk|Turk]] du mục như [[Pechenegs]] và [[Kipchak]], gây ra những cuộc [[Di cư loài người|di cư]] lớn của [[người Slav|dân cư Slavơ]] tới những vùng an toàn và có nhiều rừng cây hơn ở phía bắc.<ref name="Klyuch1">{{Chú thích sách|last=Klyuchevsky|first=Vasily|title=The course of the Russian history|location=v.1|url=http://www.kulichki.com/inkwell/text/special/history/kluch/kluch16.htm|isbn=5-244-00072-1|year=1987|publisher="Myslʹ}}</ref> Thế kỷ XIII, cuộc [[Mông Cổ xâm lược nước Nga|xâm lược của Mông Cổ]] đã tàn phá nước Rus Kiev. Kiev bị phá huỷ hoàn toàn năm 1240.<ref>{{Chú thích web|url=https://tspace.library.utoronto.ca/citd/RussianHeritage/4.PEAS/4.L/12.III.5.html|tiêu đề=The Destruction of Kiev|ngày truy cập = ngày 3 tháng 1 năm 2008 |work=University of Toronto's Research Repository}}</ref> Trên lãnh thổ Ukraina, nhà nước Kievan Rus' được kế tục bởi các công quốc Galich ([[Halych]]) và [[Volhynia|Volodymyr-Volynskyi]], chúng sáp nhập thành nhà nước [[Galicia-Volhynia]].{{clear}}
Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ [[Novgorod]] và xứ [[Pskov]], đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Nga Kiev, theo thời gian các xứ này dần phát triển và trở thành [[nước Nga]] ngày nay. Trong khi đó, các vùng miền tây bị [[Đại Công quốc Litva|Đại công quốc Litva]] và [[Ba Lan]] chiếm giữ. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kiev đã tách [[người Nga]] ở phía bắc ra khỏi [[người Belarus]] và [[người
Như vậy, 3 quốc gia Nga, Belarus và Ukraine đều chia sẻ chung một cội nguồn là xứ [[Rus Kiev]] của [[người Rus']]. Cho tới nay, 3 quốc gia này tuy độc lập với nhau nhưng có rất nhiều điểm chung về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo... Năm 2015, Tổng thống Nga [[Vladimir Putin]] đã tuyên bố rằng ''"Người Nga và người
=== Sự đô hộ của nước ngoài ===
Dòng 120:
[[Tập tin:Repin Cossacks.jpg|nhỏ|trái|''[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ]]''. Tranh của [[Ilya Repin]] từ 1880 đến 1891.]]
Giữa thế kỷ XIV, [[Galicia-Volhynia]] bị [[Casimir III của Ba Lan|Casimir Đại đế của Ba Lan]] chinh phục, tuy vùng đất trung tâm của Nga, gồm cả Kiev, rơi vào tay [[Gediminas]] của [[Lãnh địa Đại công tước Litva]] sau [[Trận đánh trên Sông Irpen']]. Sau năm 1386 [[Liên minh Krevo]], một [[liên minh các triều đại]] giữa Ba Lan và Litva, hầu hết lãnh thổ
Tới năm 1569, [[Liên minh Lublin]] thành lập [[Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva|Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva]], và một phần lớn lãnh thổ Ukraine được chuyển từ quyền cai trị chủ yếu Litva sang cho bộ máy hành chính Ba Lan, như nó đã được chuyển giao cho [[Ngôi vua Vương quốc Ba Lan|Vua Ba Lan]]. Dưới áp lực văn hoá và chính trị của quá trình [[Ba Lan hoá]] đa phần thượng Ruthenia chuyển theo [[Kitô giáo|Cơ đốc giáo]] và trở nên không thể phân biệt với [[giới quý tộc Ba Lan]].<ref>Subtelny, p. 92–93</ref> Vì thế, những người thường dân
[[Tập tin:Crimean Khanate 1600.gif|nhỏ|160px|[[Khả hãn quốc Krym]] từng là một trong những cường quốc mạnh nhất ở Đông Âu cho tới cuối thế kỷ XVII.]]
Giữa thế kỷ XVII, một quân đội kiểu nhà nước của người Cozak, [[Đạo quân Zaporozhia]] được thành lập bởi những người [[Cozak sông Dnieper]] và các nông dân Ruthenia chạy trốn chế độ [[nông nô]] Ba Lan.<ref name="zaporizhia">{{Chú thích web|url=http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkPath=pages\Z\A\ZaporizhiaThe.htm|tiêu đề=Zaporizhia, The|ngày truy cập = ngày 16 tháng 12 năm 2007 |tác giả 1=Krupnytsky B. and Zhukovsky A.|work=[[Encyclopedia of Ukraine]]}}</ref> Ba Lan ít có quyền kiểm soát thực tế với vùng đất này, quả thực họ thấy rằng người Cossack là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu chống lại người Thổ và người [[Khả hãn quốc Krym|Tatar]],<ref name=britcos>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/eb/article-30078/Ukraine|url lưu trữ=//web.archive.org/web/20071011213409/http://britannica.com/eb/article-30078/Ukraine|ngày lưu trữ=ngày 11 tháng 10 năm 2007|tiêu đề=Ukraine – The Cossacks|ngày truy cập=ngày 12 tháng 9 năm 2007|work=[[Encyclopædia Britannica]] (fee required)}}</ref> ở những thời điểm hai lực lượng liên kết trong [[Những cuộc chiến tranh của đế quốc Ottoman ở châu Âu|các chiến dịch quân sự]].<ref>[http://www.econ.hit-u.ac.jp/~areastd/mediterranean/mw/pdf/18/10.pdf The Crimean Tatars and their Russian-Captive Slaves]. Eizo Matsuki, ''Mediterranean Studies Group at Hitotsubashi University.''</ref> Tuy nhiên, quá trình tiếp tục nông nô hoá các nông dân của [[giới quý tộc Ba Lan]] được tăng cường thêm bởi tham muốn mãnh liệt khai thác nguồn nhân lực, và quan trọng nhất, là sự đàn áp Nhà thờ Chính thống được thúc đẩy bởi tham muốn của người Cossack rời bỏ Ba Lan.<ref name=britcos>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/eb/article-30078/Ukraine|tiêu đề=Ukraine - The Cossacks|ngày truy cập = ngày 12 tháng 9 năm 2007 |work=[[Encyclopædia Britannica]] (fee required)}}</ref> Mong muốn của họ là có đại diện trong [[Sejm#Sejm của Vương quốc Ba Lan và Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva|Sejm]], công nhận các truyền thống Chính thống và sự mở rộng dần dần của [[Cossack Registry]]. Tất cả chúng đều bị giới quý tộc Ba Lan kịch liệt phản đối. Cuối cùng người Cozak quay sang tìm kiếm sự bảo hộ của Chính thống giáo [[Chế độ Sa hoàng Nga|Nga]], một quyết định sau này sẽ dẫn tới sự sụp đổ của nhà nước Ba Lan-Litva,<ref name="zaporizhia">{{Chú thích web|url=http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkPath=pages\Z\A\ZaporizhiaThe.htm|tiêu đề=Zaporizhia, The|ngày truy cập=ngày 16 tháng 12 năm 2007|tác giả 1=Krupnytsky B. and Zhukovsky A.|work=[[Encyclopedia of Ukraine]]}}</ref> và sự bảo tồn [[Nhà thờ Chính thống giáo phương Đông|Nhà thờ Chính thống]] và tại Ukraine.<ref>Magocsi, p. 195</ref>
Dòng 131:
<!--- (1914–1925) --->
{{xem thêm|Nội chiến Nga}}
Ukraina bước vào [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] bên cạnh cả [[liên minh Trung tâm|phe Liên minh]], với [[đế quốc Áo-Hung]], và [[Entente|phe Hiệp ước]], với Nga. 3.5 triệu người
Với sự sụp đổ của Đế quốc Nga và Áo-Hung sau chiến tranh và cuộc [[Cách mạng Nga (1917)|Cách mạng Nga năm 1917]], một phong trào quốc gia Ukraina đòi quyền tự quyết tái xuất hiện. Trong giai đoạn 1917–20, nhiều nhà nước Ukraine riêng biệt xuất hiện trong một giai đoạn ngắn: [[Cộng hòa Nhân dân
=== Ukraina Xô viết giữa hai cuộc chiến ===
<!--- (1922–1939) --->
[[Tập tin:Ukposter.jpg|phải|nhỏ|Poster tuyển lính với chủ đề đã được Ukraina hoá. Dòng chữ viết: "Con trai! Đăng ký vào trường [[hồng Quân|chỉ huy Đỏ]], và việc bảo vệ [[Xô viết Ukraine]] sẽ được đảm bảo."]]
Sau cuộc cách mạng, chính phủ Xô viết phải đối đầu với sự tàn phá Ukraine. Hậu quả của chiến tranh là 1.5 triệu người chết và hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Xô viết
[[Tập tin:DneproGES.jpg|nhỏ|trái|Nhà máy thuỷ điện [[DniproGES]] đang được xây dựng khoảng năm 1930]]
Bắt đầu từ cuối thập niên 1920,
Những thời gian công nghiệp hoá và Holodomor cũng trùng với cuộc tấn công của Liên xô vào giới lãnh đạo chính trị và văn hoá quốc gia thường bị buộc tội "chệch hướng quốc gia". Hai làn sóng thanh trừng chính trị và truy tố của Stalin tại Liên bang Xô viết (1929–34 và 1936–38) đã bắt giữ gần bốn phần năm giới lãnh đạo
=== Chiến tranh thế giới thứ hai ===
Dòng 149:
{{xem thêm|Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ hai)}}
[[Tập tin:Dayosh Kiev.jpg|nhỏ|phải|[[Quân đội Liên xô|Các binh sĩ Xô viết]] chuẩn bị bè vượt sông [[Sông Dnepr|Dnieper]] (bảng viết "Trao Kiev cho tôi!") năm 1943 trong [[Trận sông Dniepr|Trận Dnieper]]]]
Sau cuộc [[Xâm lược Ba Lan]] vào tháng 9 năm 1939, quân đội [[Đức Quốc xã|Đức]] và [[Liên Xô|Liên xô]] phân chia lãnh thổ Ba Lan. Vì thế, Đông [[Galicia (Trung Âu)|Galicia]] và [[Volhynia]] với dân số
Sau [[Trận chiến nước Pháp|khi Pháp đầu hàng]] Đức, [[România]] nhượng [[Bessarabia]] và bắc [[Bukovina]] theo [[Tối hậu thư Xô viết tháng 6 năm 1940|các yêu cầu của Liên xô]]. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina sáp nhập các quận phía bắc và phía nam của Bessarabia, bắc Bukovina, và vùng chiếm đóng [[Vùng Hertsa|Hertsa]] của Liên xô. Nhưng nó nhượng lại phần phía tây [[Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tự trị Moldavia]] cho nước [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia|Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia]] mới được thành lập. Toàn bộ những lãnh thổ giành được đó đều được quốc tế công nhận theo [[Các Hiệp ước Hoà bình Paris năm 1947]].
Dòng 155:
[[Wehrmacht|Quân đội Đức]] [[Chiến dịch Barbarossa|xâm lược Liên xô]] ngày 22 tháng 6 năm 1941, khởi động một cuộc [[chiến tranh toàn diện|chiến tranh tổng lực]] kéo dài trong bốn năm liền. Liên minh [[phe Trục]] ban đầu tiến nhanh trước những nỗ lực tuyệt vọng nhưng không hiệu quả của [[Hồng Quân|Hồng quân]]. Trận bao vây [[Kiev]], thành phố được ca ngợi như một "[[Thành phố Anh hùng (Liên Xô)|Thành phố anh hùng]]", diễn ra bởi lo ngại [[Trận Kiev (1941)|sự kháng cự]] của Hồng Quân và dân chúng địa phương Hơn 600,000 binh sĩ Xô viết (hay một phần tư [[Mặt trận phía Tây Xô viết|của Mặt trận phía Tây]]) bị giết hay [[Những tội ác của Phát xít chống tù binh chiến tranh Liên xô|bị bắt giữ]] tại đó.<ref>Roberts, p. 102</ref><ref>Boshyk, p. 89</ref> Dù đại đa số người Ukraine chiến đấu bên cạnh [[Hồng Quân|Hồng quân]] và [[Người ủng hộ Liên xô|cuộc kháng chiến Xô viết]],<ref name="worldwars">{{Chú thích web|url=http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkpath=pages\W\O\Worldwars.htm|tiêu đề=World wars|ngày truy cập=2007-12-20|work=Encyclopedia of Ukraine}}</ref> một số thành phần quốc gia Ukraine bí mật lập ra một phong trào quốc gia chống Liên xô tại [[Galicia (Trung Âu)|Galicia]], [[Quân đội Nổi dậy Ukraina]] (1942) chiến đấu cùng các lực lượng [[Đức Quốc xã|Phát xít]] và tiếp tục chiến đấu với Liên bang Xô viết trong những năm hậu chiến. Sử dụng các chiến thuật [[chiến tranh du kích]], những người nổi dậy thực hiện [[ám sát]] và khủng bố những người họ cho là đại diện, hay hợp tác ở bất kỳ mức độ nào với nhà nước Xô viết.<ref>Piotrowski p. 352–54</ref><ref>Weiner p.127–237</ref> Cùng lúc ấy [[Quân đội Giải phóng Ukraine|một phong trào quốc gia khác]] chiến đấu bên cạnh quân Phát xít. Tổng cộng, số người Ukraine chiến đấu trong mọi cấp bậc Quân đội Liên xô được ước tính từ 4.5 triệu<ref name="worldwars">{{Chú thích web|url=http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkpath=pages\W\O\Worldwars.htm|tiêu đề=World wars|ngày truy cập=ngày 20 tháng 12 năm 2007|work=Encyclopedia of Ukraine}}</ref> tới 7 triệu.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.peremoga.gov.ua/index.php?2150005000000000020|tiêu đề=Losses of the Ukrainian Nation, p. 2|ngày truy cập = ngày 16 tháng 12 năm 2007 |work=Peremoga.gov.ua|ngôn ngữ=Ukrainian}}</ref>{{Ref_label|D|d|1}} Cuộc kháng chiến du kích của [[Những người ủng hộ Liên xô|quân kháng chiến ủng hộ Liên xô]] tại Ukraine ước tính ở con số 47,800 người từ đầu cuộc xâm lược lên tới đỉnh điểm 500,000 người năm 1944; với khoảng 50 phần trăm trong số họ là người Ukraine.<ref>Subtelny, p. 476</ref> Nói chung, các con số lính của Quân đội Nổi dậy Ukraine rất không đáng tin cậy, thay đổi trong khoảng từ 15,000 tới 100,000 chiến binh.<ref>Magocsi, p. 635</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkPath=pages\U\K\UkrainianInsurgentArmy.htm|tiêu đề=Ukrainian Insurgent Army|ngày truy cập=2007-12-20|work=Encyclopedia of Ukraine}}</ref>
Ban đầu, người Đức được đón nhận như những người giải phóng bởi một số người gốc Ba Lan ở tây Ukraine, họ chỉ mới gia nhập Liên xô năm 1939. Tuy nhiên, sự cai trị hà khắc của người Đức tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng cuối cùng đã khiến những người ủng hộ họ quay sang chống đối sự chiếm đóng. Các viên chức Phát xít tại các vùng lãnh thổ Liên xô đã bị chiếm đóng ít có nỗ lực để khai thác sự bất mãn của dân chúng trong lãnh thổ
Đại đa số trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra tại [[Chiến tranh Xô-Đức|Mặt trận phía Đông]],<ref>Weinberg, p. 264</ref> và theo nguồn thống kê mang tính thổi phồng của Liên Xô thì [[Đức Quốc xã|Phát xít Đức]] chịu 93 phần trăm thương vong tại đây (dù tỷ lệ thực tế cũng khá cao là khoảng 75%).<ref>Rozhnov, Konstantin, [http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/4508901.stm Who won World War II?]. BBC. Citing Russian historian [[Valentin Falin]]. Truy cập 2008-07-05.</ref> Tổng cộng thiệt hại với dân số Ukraina trong cuộc chiến được ước tính trong khoảng năm tới tám triệu người,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.peremoga.gov.ua/index.php?3450000000000000010|tiêu đề=Losses of the Ukrainian Nation, p. 1|ngày truy cập = ngày 16 tháng 12 năm 2007 |work=Peremoga.gov.ua|ngôn ngữ=Ukrainian}}</ref><ref>Kulchytsky, Stalislav, ''"Demographic losses in Ukrainian in the twentieth century"'', [[Zerkalo Nedeli]], October 2-8, 2004. Available online [https://archive.is/20120702211316/www.zn.ua/3000/3150/47913/ in Russian] and [https://archive.is/20120702211316/www.zn.ua/3000/3150/47913/ in Ukrainian]. Truy cập 2008-01-27.</ref> gồm hơn một nửa triệu người Do thái bị [[Einsatzgruppen]] giết hại, thỉnh thoảng với sự giúp đỡ của những kẻ cộng tác người địa phương. Trong ước tính 8.7 triệu lính Xô viết hi sinh trong chiến đấu chống Phát xít,<ref name="peremoga7">{{Chú thích web|url=http://www.peremoga.gov.ua/index.php?2150005000000000070|tiêu đề=Losses of the Ukrainian Nation, p. 7|ngày truy cập = ngày 16 tháng 12 năm 2007 |work=Peremoga.gov.ua|ngôn ngữ=Ukrainian}}</ref><ref>Overy, p. 518</ref><ref name="Krivosheev">Кривошеев Г. Ф., ''Россия и СССР в войнах XX века: потери вооруженных сил. Статистическое исследование'' (Krivosheev G. F., ''Russia and the USSR in the wars of the 20th century: losses of the Armed Forces. A Statistical Study'') {{ru icon}}</ref> 1.4 triệu là [[người Ukraina]].<ref name="peremoga7">{{Chú thích web|url=http://www.peremoga.gov.ua/index.php?2150005000000000070|tiêu đề=Losses of the Ukrainian Nation, p. 7|ngày truy cập=ngày 16 tháng 12 năm 2007|work=Peremoga.gov.ua|ngôn ngữ=Ukrainian |url lưu trữ = //web.archive.org/web/20050515100506/http://www.peremoga.gov.ua/index.php?2150005000000000070 |ngày lưu trữ = ngày 15 tháng 5 năm 2005}}{{Dead link|date=January 2014}}</ref><ref name="Krivosheev"/>{{Ref_label|D|d|2}}{{Ref_label|E|e|none}} Vì thế tới ngày nay, [[Ngày Chiến thắng (Mặt trận phía Đông)|Ngày Chiến thắng]] được coi là một trong mười ngày lễ quốc gia của Ukraina.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mfa.gov.ua/mfa/en/publication/content/290.htm|tiêu đề=Holidays |ngày truy cập=2008-08-24|nhà xuất bản=Ministry of Foreign Affairs of Ukraine|url lưu trữ=https://archive.is/PzAd|ngày lưu trữ=2012-06-28}}</ref>{{clear}}
|