Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Không lực Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dùng từ Không Quân thay vì Không Lực
n Đã lùi lại sửa đổi của 182.239.157.169 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 2405:4800:171E:B542:4CD6:AC76:89CE:3A85
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 32:
}}
 
'''Không QuânLực Việt Nam Cộng hòa''' ([[Tiếng Anh]]: ''Vietnam Air Force'', '''VNAF''') là lực lượng không quân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội [[Liên hiệp Pháp]] chuyển giao cho [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] sau khi rút khỏi Việt Nam, sau đó dần được bổ sung cải tiến bằng những phi cơ tối tân, hiện đại do Hoa Kỳ cung cấp, trở nên ngày càng mạnh về số lượng cùng hỏa lực trên không. Không quân đã đóng vai trò quan trọng việc yểm trợ Bộ binh VNCH trên mặt đất.
 
Không Quânlực VNCH được Hoa Kỳ cung cấp số lượng máy bay rất lớn, được xếp hạng sức mạnh thứ 4 trên Thế giới và thứ 2 tại châu Á (chỉ đứng sau Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc). Lúc cao điểm Không Quânlực VNCH có tới trên 2.000 máy bay và trực thăng các loại, tức là còn nhiều máy bay hơn không quân các cường quốc đương thời như [[Anh]], [[Pháp]], [[Đức]], [[Nhật Bản]]... Tuy nhiên khi so sánh với [[Không quân Hoa Kỳ]] thì Không Quânlực VNCH chỉ có [[Ném bom chiến thuật|Không quân chiến thuật]] để hỗ trợ tiền tuyến mà không có [[Ném bom chiến lược|Không quân chiến lược]] (cụ thể là pháo đài bay [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]]). Đồng thời lực lượng này bị Hoa Kỳ kiểm soát và khống chế việc chỉ huy các chiến dịch, khiến phi cơ chỉ có thể hoạt động giới hạn tại Nam Việt nam, không được phép thực hiện những phi vụ oanh tạc sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam cũng như 2 nước láng giềng là Lào và Campuchia. Sau khi để mất các đảo trong [[Hải chiến Hoàng Sa 1974|Hải chiến Hoàng Sa]] về phía [[Trung Quốc]], [[Nguyễn Văn Thiệu|Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu]] đã lên kế hoạch huy động không quânlực VNCH oanh tạc [[Hoàng Sa, Đà Nẵng|Hoàng Sa]] để chiếm lại nhưng sau đó bị hủy bỏ do phía Mỹ ngăn chặn. Trong [[Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975]], cùng với sự sụp đổ của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], lực lượng không quân cũng chính thức tan rã.
 
Có một điều khá đặc biệt là dù quy mô trang bị rất lớn, đã tham chiến suốt 20 năm trong chiến tranh Việt Nam nhưng Không Quânlực VNCH lại chưa từng bắn rơi được bất kỳ máy bay đối phương nào, trong khi đã 2 lần ném bom Dinh Tổng thống chế độ VNCH trong các phi vụ nhằm ám sát tổng thống.
*Bài ca chính thức: ''[[Không quân Việt Nam hành khúc]]''<ref>Một sáng tác của [[Nhạc sĩ]] [[Văn Cao]]</ref>.
 
Dòng 51:
Sau [[Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955|cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm 1955]], [[Thủ tướng]] [[Ngô Đình Diệm]] tuyên bố thành lập [[Việt Nam Cộng hòa]]. Lực lượng Không quân Quốc gia Việt Nam cũng được đổi tên thành '''[[Không quân Việt Nam Cộng hòa]]'''. Thiếu tá [[Trần Văn Hổ (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trần Văn Hổ]], đương kim Phụ tá Không quân, được thăng Trung tá, và trở thành Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Hòa.
 
[[Tập tinHình: Flag of the Republic of Vietnam Air Force.png|nhỏ|160px|<center>Quân kỳ.]]
[[Tập tinHình: Vietnam Air Force (south) roundel.svg|nhỏ|160px|<center>Huy hiệu]]
Năm 1957, theo chương trình hợp tác viện trợ, một phái đoàn [[Không quân Hoa Kỳ]] sang nghiên cứu tình hình để soạn thảo kế hoạch huấn luyện cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan được tuyển chọn sang tu nghiệp tại các trường Không quân Hoa Kỳ. Các phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng được xây dựng mở rộng. Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang cũng được xây dựng quy mô hơn, nhằm đào tạo tại chỗ các khóa hoa tiêu và quan sát viên, và các khóa đào tạo chuyên viên để bổ sung cho các đơn vị.
 
Dòng 64:
 
==Đệ Nhị Cộng Hòa==
[[Tập tinHình: ARVN flee, 1972.jpg|nhỏ|phải|220px|Binh sĩ bị thương Việt Nam Cộng hòa đang cố trèo lên một chiếc trực thăng UH-1 để di tản trong trận An Lộc, 1972 vì Việt cộng pháo kích nặng nề.]]
Sau cuộc [[đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964|"Chỉnh lý"]] lên nắm quyền, tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện một số cải tổ trong Quân đội. Ngoài việc đặt ra thêm cấp bậc [[Chuẩn tướng]], ông còn cho thay đổi tên gọi "Quân đội Việt Nam Cộng hòa" thành "[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]". Danh xưng '''Không Lực Việt Nam Cộng Hòa''' cũng được sử dụng chính thức từ lúc đó.
 
Năm 1965, Không Quânlực Việt Nam Cộng hòa có thêm các Phi đoàn [[máy bay tiêm kích|Khu trục cơ]] [[Cessna A-37 Dragonfly|A-37 Dragonfly]] và sau đó là các Phi đoàn Không vận cánh quạt loại lớn [[C.130 Hercules]] và trực thăng [[CH.47 Chinook]].
 
Ngày 3 tháng 2 năm 1965, một [[Phi đoàn]] gồm 24 chiếc [[Douglas A-1 Skyraider|A-1H Skyraider]] do Thiếu tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] chỉ huy cất cánh từ Căn cứ Không quân Đà Nẵng và tham gia vào Chiến dịch Mũi tên lửa ''(Flaming Dart)'' do Hoa Kỳ vạch định, tấn công các địa điểm ở phía bắc Vĩ tuyến 17<ref>Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong máu lửa, trang 382;</ref>
Dòng 73:
Ngày 11 tháng 2 năm 1965, Đại tá [[Nguyễn Ngọc Loan]], Tư lệnh phó Không lực Việt Nam Cộng hòa, làm Phi đoàn trưởng 28 chiếc Skyraider của Việt Nam Cộng hòa cùng với 28 chiếc F100 của Không quân Hoa Kỳ mở cuộc tấn công thứ hai vào lãnh thổ phía bắc Vĩ tuyến 17. Trong đợt này phi công [[Phạm Phú Quốc]] bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam<ref>Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong máu lửa, trang 384;</ref>
 
Năm 1967, Không QuânLực Việt Nam Cộng hòa có thêm 1 Phi đoàn Khu trục trang bị phản lực cơ F-5. Số hiệu của các đơn vị cấp [[Phi đoàn]] được cải tổ xếp thành 3 số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của đơn vị cấp phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của phi đoàn đó: số 1 là liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là máy bay cường kích<!--thuật từ của KLVNCH, xin đừng sửa đổi-->, và số 9 là huấn luyện.<ref name="ReferenceA"/>
 
Năm 1970, với đà phát triển nhanh của Không QuânLực Việt Nam Cộng Hòa, các Không đoàn Chiến thuật phát triển thành 4 Sư đoàn không quân<ref>Mỗi Sư đoàn Không quân mới thành lập gồm có 1 Không đoàn chiến thuật gốc.</ref>, tác chiến hỗ trợ cho 4 Vùng Chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn 5 Không quân được thành lập và trở thành Lực lượng Không quân Trừ bị của Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1972, thành lập thêm tại Quân khu 2 Sư đoàn 6 chịu trách nhiệm vùng trời chiến trường Cao nguyên Trung phần.
 
Tính đến cuối năm 1974, Không Quânlực Việt Nam Cộng hòa có tổng số quân lên tới 62.583, trong đó có 6.788 phi công; tổng số máy bay lên tới 1.850 chiếc, trong đó có 260 máy bay tiêm kích, số còn lại là máy bay ném bom, trinh sát, vận tải và trực thăng. Chất lượng máy bay cũng cải tiến (thay F-5A bằng F-5E).
 
Năm 1975, Không Quânlực Việt Nam Cộng hòa có 5 Sư đoàn Không quân tác chiến (20 [[Phi đoàn]] Khu trục cơ với khoảng 550 phi cơ [[Douglas A-1 Skyraider|A-1H Skyraider]], [[Cessna A-37 Dragonfly|A-37 Dragonfly]], và [[Northrop F-5|F-5]], 23 Phi đoàn Trực thăng với khoảng 1.000 trực thăng [[Bell UH-1 Iroquois|UH-1 Iroquois]] và [[CH-47 Chinook]], 8 Phi đoàn quan sát với khoảng 200 phi cơ [[O-1 Bird Dog]], [[O-2 Skymaster]], và [[Cessna 180|U-17]]), 1 Sư đoàn Vận tải (9 Phi đoàn vận tải với khoảng 150 phi cơ [[de Havilland Canada DHC-4 Caribou|C-7 Caribou]], [[Douglas C-47 Skytrain|C-47 Skytrain]], [[C-119 Flying Boxcar]], và [[C-130 Hercules]]), 1 Không đoàn Tân trang Chế tạo, 4 Phi đoàn hỏa long <!--từ của KLVNCH gọi cho "Phi đoàn cường kích"-->(''attack squadron'') với các phi cơ [[Fairchild AC-119]], [[Lockheed AC-130]]. Ngoài ra còn có các Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát, và Biệt đoàn Đặc vụ 314.
 
==Tổ chức==
Dòng 721:
 
==Trang bị==
[[Tập tinHình: F-5C VNAF 23TW 522FS BienHoa 1971.jpg|nhỏ|phải|<center>Phi cơ F.5C tại Căn cứ Không quân Biên Hòa năm 1971]]
[[Tập tinHình: USAF T-28 VNAF colours 1962.jpg|nhỏ|phải|<center>Phi cơ 4400th CCTS T.28 đang bay trên bầu trời]]
[[Tập tinHình: O-1A VNAF 23TW 112LS BienHoa 1971.jpg|nhỏ|phải|<center>Phi cơ quan sát O.1 thuộc Phi đoàn Liên lạc 112/Không đoàn 23 tại Căn cứ Không quân Biên Hòa 1971]]
[[Tập tinHình: A-1H-VNAF-520FS-BinhThuy.jpg|nhỏ|phải|<center>Phi cơ A.1H thuộc Phi đoàn Khu trục cơ 520 tại Căn cứ Không quân Bình Thủy, Cần Thơ]]
[[Tập tinHình: U-17A VNAF NhaTrang.jpg|nhỏ|phải|<center>Phi cơ Cessna U.17A tại Căn cứ Không quân Nha Trang]]<br>'''Phi cơ Hỏa long''' (thuật ngữ Không QuânLực Việt Nam Cộng hòa gọi [[Máy bay cường kích|Phi cơ cường kích]])
 
*[[Douglas A-1 Skyraider]]
*[[Cessna A-37 Dragonfly]]
Hàng 733 ⟶ 732:
*[[C-119|Fairchild AC-119K Stinger]]<br>'''[[Máy bay ném bom|Oanh tạc cơ]]'''
*[[Douglas A-26 Invader|Douglas B-26 Invader]] - nhận được trong chương trình ''Farm Gate''
*[[Martin B-57 Canberra]] - Không quân Hoa Kỳ cho mượn để dùng cho huấn luyện - chưa bao giờ được Không QuânLực Việt Nam Cộng Hòa khai triển cho tác chiến<br>'''[[Máy bay tiêm kích|Khu trục cơ]]'''
*[[Grumman F8F Bearcat]]
*[[Northrop F-5|Northrop F-5A/B/C Freedom Fighter]]