Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương quốc Macedonia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 336:
[[Quân đội nhà Antigonos|Quân đội Macedonia]] đã tiếp tục phát triển dưới thời [[nhà Antigonos]]. Người ta không rõ liệu có bao nhiêu người đã được chọn làm ''somatophylakes'', có 8 người trong lực lượng này vào giai đoạn cuối triều đại của Alexandros Đại đế, trong khi lực lượng ''hypaspistai'' dường như đã bị biến thành lực lượng hỗ trợ cho ''somatophylakes''.<ref group="note">{{harvnb|Sekunda|2010|p=459}}; {{harvnb|Errington|1990|p=245}}: "Những cải tiến khác trong tổ chức quân đội của người Macedonia rõ ràng đã diễn ra sau triều đại của [[Alexandros Đại đế|Alexandros]]. Một trong số đó là việc lực lượng ''[[hypaspistai]]'' được chuyển đổi từ một lực lượng tinh nhuệ thành một lực lượng [[cảnh binh]] hoặc [[cận vệ]] dưới triều đại của [[Philippos V của Macedonia|Philippos&nbsp;V]]; điểm chung duy nhất giữa hai chức năng này đó là sự thân cận đặc biệt với nhà vua."</ref> Tại [[trận Cynoscephalae]] vào năm 197{{nbsp}}TCN, người Macedonia đã chỉ huy khoảng 16,000 lính giáo phalanx.<ref name="sekunda 2010 461">{{harvnb|Sekunda|2010|p=461}}.</ref>Đội kỵ binh chiến hữu hoàng gia của Alexandros Đại đế gồm 800 người, bằng số lượng kỵ binh trong đội kỵ binh thần thánh ([[tiếng Latin]]: ''sacra ala''; [[tiếng Hy Lạp]]: ''hiera ile'') được [[Philippos V của Macedonia]] chỉ huy trong cuộc [[chiến tranh Đồng Minh (220–217 TCN)|chiến tranh Đồng Minh]] vào năm 219{{nbsp}}TCN.<ref name="sekunda 2010 460">{{harvnb|Sekunda|2010|p=460}}.</ref> Lực lượng kỵ binh chính quy người Macedonia có số lượng 3,000 người tại Callinicus, nó tách biệt với lực lượng kỵ binh thần thánh và kỵ binh hoàng gia.<ref name="sekunda 2010 460"/> Trong khi các kỵ binh Macedonia vào thế kỷ thứ 4 chiến đấu mà không cần khiên, người Macedonia sau đó đã bắt chước sử dụng khiên cho kỵ binh từ [[Sự định cư của người Celt ở Đông Âu|những người Celt xâm lược]] vào thập niên 270{{nbsp}}TCN, họ sau đó đã định cư ở [[Galatia]], ở khu vực trung tâm Anatolia.<ref>{{harvnb|Sekunda|2010|p=469}}</ref>
 
Nhờ vào [[Sắc lệnh quân sự của Amphipolis|những bản khắc đương thời]] đến từ Amphipolis và Greia có niên đại lần lượt vào năm 218 và 181{{nbsp}}TCN, các nhà sử học đã có thể dựng lại một phần nào đó tổ chức của quân đội nhà Antigonos dưới thời Philippos{{nbsp}}V.<ref group="note">{{harvnb|Sekunda|2010|pp=460–461}}; đối với sự phát triển của các tước hiệu quân sự của người Macedonia, chẳng hạn như những sĩ quan ''tetrarchai'' được hỗ trợ bởi các ''grammateis'' (tức là các thư ký), xem {{harvnb|Errington|1990|pp=242–243}}.</ref> Ít nhất là từ triều đại của [[Antigonos III Doson]] trở đi, lực lượng bộ binh tinh nhuệ nhất dưới thời nhà Antigonos là lực lượng [[peltast]], những người lính trang bị nhẹ hơn và cơ động hơn sử dụng những [[ngọn lao]] ''peltai'', gươm, và một chiếc khiên đồng nhỏ hơn những chiếc khiên của những người lính [[phalanx Macedonia]].<ref group="note">{{harvnb|Sekunda|2010|pp=461–462}}; <br>{{harvnb|Errington|1990|p=245}}: "Một thay đổi khác mà đã diễn ra muộn nhất là dưới triều đại của [[Antigonos III Doson|Doson]] đó chính là đội hình và sự huấn luyện đơn vị đặc biệt ''[[peltast]]'' tách rời khỏi đội hình [[phalanx Macedonia|phalanx]]. Đơn vị này hoạt động như là một dạng [[cận vệ hoàng gia]] có chức năng tương tự như ''[[hypaspistai]]'' thời kỳ đầu."</ref> Trong lực lượng peltast, khoảng gần 2,000 người được lựa chọn để phục vụ trong lực lượng tinh nhuệ tiên phong ''agema'', cùng với các peltast khác với số lượng khoảng 3,000.<ref name="sekunda 2010 462">{{harvnb|Sekunda|2010|p=462}}.</ref> Số lượng peltast biến đổi theo thời kỳ, nhưng có lẽ chưa bao giờ vượt quá 5,000 người.<ref group="note">{{harvnb|Sekunda|2010|p=463}}; quân số của lực lượng [[peltast]] tinh nhuệ trong quân đội Macedonia được các sử gia đề cập là 5,000 quân, bằng với số lượng trong [[Chiến trang Đồng Minh (220–217 TCN)]].</ref> Họ đã chiến đấu bên cạnh những người lính phalanx, lúc này được chia thành các đội quân ''[[chalkaspides]]'' (khiên đồng) và ''[[leukaspides]]'' (khiên trắng).<ref>{{harvnb|Sekunda|2010|pp=463–464}}.</ref>
 
Các vị vua nhà Antigonos của Macedonia đã tiếp tục mở rộng và trang bị [[Hải quân cổ đại|lực lượng hải quân]].<ref>{{harvnb|Errington|1990|pp=247–248}}.</ref> [[Kassandros]] đã duy trì [[Tàu chiến thời kỳ Hy Lạp hóa|một hạm đội nhỏ]] tại [[Pydna]], [[Demetrios I của Macedonia]] có một hạm đội ở Pella, và [[Antigonos II Gonatas]], trong thời kỳ đảm nhiệm vai trò như là một vị tướng cho Demetrios ở Hy Lạp, đã sử dụng hạm đội để giữ những pháo đài của người Macedonia ở [[Demetrias]], [[Chalkis]], [[Piraeus]], và [[Corinth]].<ref name="errington 1990 248">{{harvnb|Errington|1990|p=248}}.</ref> Hải quân đã được phát triển đáng kể trong cuộc [[chiến tranh Chremonides]] (267–261{{nbsp}}TCN), điều này cho phép hải quân Macedonia đánh bại hải quân Ai Cập của nhà Ptolemaios trong [[trận Cos]] vào năm 255{{nbsp}}TCN và [[Trận Andros (246 TCN)|Trận Andros]] vào năm 245{{nbsp}}TCN và cho phép mở rộng ảnh hưởng của người Macedonia lên toàn bộ quần đảo [[Cyclades]].<ref name="errington 1990 248"/> Antigonos{{nbsp}}III Doson đã sử dụng hải quân Macedonia để xâm lược [[Caria]], trong khi Philippos{{nbsp}}V phái 200 tàu tham gia vào [[trận Chios (201 TCN)|trận Chios]] vào năm 201{{nbsp}}TCN.<ref name="errington 1990 248"/> Hải quân Macedonia đã bị cắt giảm xuống còn 6 tàu theo [[hiệp ước hòa bình]] vào năm 197{{nbsp}}TCN để kết thúc cuộc [[chiến tranh Macedonia lần thứ hai]] với [[cộng hòa La Mã]], mặc dù vậy [[Perseus của Macedonia]] đã nhanh chóng tập hợp được một số tàu ''[[lemboi]]'' vào thời điểm cuộc [[chiến tranh Macedonia lần thứ ba]] bùng nổ vào năm 171{{nbsp}}TCN.<ref name="errington 1990 248"/>