Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lockheed AC-130”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: , → ,, dầu thải → dầu thải using AWB
Dòng 4:
|caption= Một chiếc AC-130U thuộc [[Phi đoàn Chiến dịch Đặc biệt 4]]
}}{{Infobox aircraft type
|type= [[Máy bay cường kích]] [[Máy bay cánh cố định|cánh cố định]], [[Chi viện không quân trực tiếp|chi viện không quân trực tiếp]]
|manufacturer= [[Tập đoàn Lockheed|Lockheed]]<br>[[Lockheed Martin]]<br>[[Boeing]]
|designer=
Dòng 38:
- Pháo 40mm L-60 Bofors (tốc độ bắn 100 phát/phút, cơ số 256 viên đạn);
 
- Lựu pháo Howitzer M-102 cỡ nòng 105&nbsp;mm , được thiết kế dựa trên nguyên mẫu lựu pháo tiêu chuẩn của [[Lục quân Hoa Kỳ]] (tốc độ bắn 6-10 phát/phút, cơ số đạn là 98 viên).
 
Điểm khác biệt chính từ AC-130H Spektr là lắp đặt súng năm nòng 25-mm thay cho súng sáu nòng 20mm "Vulcan". Mặc dù thực tế súng Gatling có khối lượng nặng hơn (122&nbsp;kg so với 116&nbsp;kg của "Vulcan") cần mang theo một khối lượng lớn đạn, nhưng vận tốc đầu nòng của đạn 25&nbsp;mm rất cao (1200 &nbsp;m/s so với 1030 &nbsp;m/s của đạn 20&nbsp;mm), do đó đạt được hiệu quả trong việc tăng tầm bắn của súng từ 2,7&nbsp;km đến 3,7&nbsp;km, đồng thời độ chính xác của đạn cũng cao hơn. Giai đoạn hiện nay, máy bay còn được nghiên cứu lắp đặt thêm hệ thống tên lửa chống tăng Hellfire.
 
Trong thời gian tấn công mục tiêu Gunship AC-130U thực hiện quỹ đạo bay sao cho mục tiêu luôn nằm trong tâm điểm của vòng lượn. Các máy bay thế hệ sau này của Gunship (khu trục hạm trên không) các vũ khí đều có thể cơ động xoay chuyển linh hoạt, do đó phi công không nhất thiết phải giữ cho quỹ đạo bay của máy bay cố định nhằm đạt được độ chính xác của hỏa lực cao nhất. Đồng thời, khả năng cơ động linh hoạt của máy bay làm tăng khả năng sống còn trong chiến đấu.
 
==Hệ thống điện tử ==
AC-130 lắp đặt thiết bị nhìn đêm hồng ngoại, thiết bị khuếch đại ánh sáng mờ (độ khuếch đại tối đa tới 4.000 lần), thiết bị nhìn đêm tạo ảnh nhiệt và thiết bị phát hiện tia lửa điện khi ô tô hoạt động… Các thiết bị trên máy bay hầu hết phục vụ cho việc đánh đêm.
 
Ngoài ra, phi đoàn máy bay cường kích hỏa lực pháo binh AC-130U được huấn luyện để có thể tấn công 2 mục tiêu trong cùng một thời điểm. Trường hợp xạ kích trong điều kiện phức tạp của môi trường tự nhiên và ánh sáng yếu, các khẩu pháo có thể được điều khiển và chỉ thị mục tiêu bằng hệ thống radar kỹ thuật số điều khiển hỏa lực Hughes AN/APQ-180, đài quan sát hồng ngoại bán cầu phía trước với góc mở 180 độ của công ty Texas Instruments AN/AAQ-117 hoặc camera TV GEC-Marconi ALLTV (all-light-level TV).
Dòng 85:
Trong [[Chiến tranh Việt Nam]], Quân đội Mỹ đã sử dụng máy bay cường kích tầm xa AC-130 để săn đuổi và bắn hạ các xe vận tải [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] (VPA) trên [[đường mòn Hồ Chí Minh]]. Tất cả các máy bay AC-130 được sử dụng ở Việt Nam nằm trong biên chế của không đoàn đặc nhiệm số 16, đóng quân ở [[Căn cứ không quân Ubon]], miền tây [[Thái Lan]]. Vào năm 1969 – 1970, trên đường Trường Sơn chỉ có hai máy bay tham chiến, sau đó số lượng máy bay càng ngày càng tăng lên.
 
AC-130 nặng gần 80 tấn nên dù có bị trúng đạn pháo phòng không cỡ nhỏ thì cũng không rơi tại chỗ mà chỉ bị hư hại. Từ năm 1970, AC-130 luôn bay cao hơn 3.000 mét nên các loại pháo phòng không cỡ 23mm, 37mm mà Việt Nam thường dùng cũng khó mà tiêu diệt được vì không bắn tới. Pháo phòng không cỡ 57mm thì có thể bắn tới AC-130, nhưng số lượng khá ít, thời đó loại pháo này cũng không có khí tài nhìn đêm nên việc bắn trúng AC-130 là rất khó.
 
Các phi vụ tác chiến trên đường mòn Hồ Chí Minh được tiến hành vào mùa khô, khi các đoàn vận tải quân sự Việt Nam tăng cường các chuyến hàng tiếp viện. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 5 và trong vòng 6 tháng, các tuyến đường tiếp vận từ Lào vào Việt Nam bị bắt buộc phải dừng do trời mưa liên tiếp và các con đường không thể cơ động được. Dựa trên những kinh nghiệm thu được từ năm 1969 đến 1970. Không quân Hoa Kỳ đưa ra những xác định khả năng tiêu diệt mục tiêu:
Dòng 93:
- Xe vận tải được xác định là đã bị bắn hỏng, khi bị bắn trúng bằng đạn 20&nbsp;mm Vulcan hoặc đạn 40&nbsp;mm nổ phá trong đường kính 3 m cách ô tô.
 
Mùa khô năm 1970 – 1971 máy bay cường kích hỏa lực AC-130 tác chiến hiệu quả nhất. Lực lượng phòng không của Việt Nam trên đường Trường Sơn khi đó chỉ có súng máy và pháo cao xạ hạng nhẹ, nên khó có thể bắn tới AC-130, những chiếc AC-130 hoạt động dễ dàng mà không sợ bị bắn hạ. Với màu sơn đen dưới bụng và màu sơn ngụy trang trên thân và phía trên, các máy bay AC-130 tuyên bố đã bắn cháy và bắn hỏng 12.741 chiếc xe vận tải của đối phương. Quả thực con số này rất đáng nghi ngờ tính chính xác của nó, bởi vì có đến 5.000 xe vận tải cũng được tính vào thành tích của những phi đoàn các loại máy bay cường kích khác. Cũng theo tin tức tình báo của Mỹ, quân đội Việt Nam có trong biên chế khoảng gần 18.000 xe vận tải, như vậy nếu tính theo tuyên bố của Mỹ thì chỉ trong mùa khô đó, máy bay Mỹ đã phá hủy hết tất cả các xe vận tải của [[Binh đoàn Trường Sơn]], có những xe còn bị phá hủy nhiều lần. Rõ ràng các phi công AC-130 đã "phóng đại" thành tích của mình lên nhiều lần.
 
Còn theo số liệu của Việt Nam, trong mùa khô 1970-1971, AC-130 đã bắn cháy 2.432 chiếc ô tô vận tải trong tổng số 4.000 chiếc bị đánh hỏng trong năm đó, tổn thất tới 12.000 tấn hàng hóa. Trước tình hình này, Bộ Quốc phòng và trực tiếp cán bộ chiến sĩ Đoàn 559 vạch ra nhiều kế hoạch bắn hạ AC-130 để bảo đảm an toàn đoàn xe cùng hàng hóa.<ref>https://baodatviet.vn/quoc-phong/bi-quyet-khac-che-bong-ma-ac-130-cua-viet-nam-2215826</ref>
 
Đoàn 559 huy động toàn bộ các lực lượng sử dụng mọi phương tiện để mở mới và nâng cấp 6 đường trục dọc Tây Trường Sơn cùng hàng trăm km đường ngang, hàng nghìn km đường vòng tránh qua các trọng điểm bị đánh phá. Đoàn 559 còn sáng tạo các tuyến đường kín: đây là con đường mở trong rừng, xe chạy dưới tán lá cây. Ở các chỗ cây thưa thì bố trí thêm những giàn cây dây leo để tạo mái che tự nhiên bằng lá cây. Được rừng che chở, các đoàn xe vận tải chạy được cả ban ngày mà không sợ máy bay địch phát hiện, nhờ đó nâng cao đáng kể năng lực vận chuyển. Từ năm 1971, Đoàn 559 đã xây dựng tuyến đường kín từ Bắc Lùm Bùm đến Hạ Lào dài trên 1.000 &nbsp;km. Bộ đội công binh còn xây dựng hàng trăm trận địa, kho giả, xe giả trên tuyến vận tải cũ để nghi binh thu hút sự chú ý của địch. Cùng với sáng tạo ra tuyến đường kín, bộ đội Đoàn 559 còn tìm ra nhiều cách dùng củi khô, [[dầu thải]], mìn khói và chất tạo khói đánh lừa thu hút máy bay địch. Bên cạnh việc thực hiện ngụy trang, nghi binh, Bộ Quốc phòng còn chỉ đạo cải tiến vũ khí đánh trả AC-130.
 
Nhưng đến năm 1972 thì tình hình hoàn toàn không dễ chịu cho phi công Mỹ. Máy bay trinh sát đường không của Mỹ đã phát hiện một số tổ hợp tên lửa phòng không [[SA-2 Guideline|SAM-2]] được bố trí để đánh trả máy bay Mỹ. Đối với AC-130 đây là nguy hiểm chết người: tránh khỏi tên lửa đất đối không SA-2 với AC-130 động cơ cánh quạt nặng nề là điều không thể. Nhưng hủy bỏ các chuyến săn đêm thì các sĩ quan Mỹ không muốn, do hiệu quả cao của máy bay đối với các xe vận tải của đối phương.
Dòng 107:
Ngày 12/05/1972, tại An Lộc, lần đầu tiên bộ đội Việt Nam sử dụng tên lửa vác vai [[Strela 2]] bắn bị thương chiếc AC-130E số hiệu 69-6573, biệt danh Heavy Metal. Ngày 18/6/1972, bộ đội Việt Nam sử dụng tên lửa vác vai [[Strela 2]] bắn rơi một chiếc AC-130, giết chết toàn bộ 12 phi công trên máy bay. Tên lửa vác vai [[Strela 2]] là một mối nguy hiểm rất lớn đối với AC-130 vì nó rất gọn nhẹ, bộ binh có thể mang vác và phục kích tại bất cứ đâu, khiến máy bay Mỹ không thể phát hiện được. Khi tên lửa đã được phóng đi thì AC-130 rất khó có thể bay thoát vì vận tốc chậm, vì vậy nó phải dựa vào mồi bẫy pháo sáng để đánh lừa tên lửa Strela 2, nhưng nếu mồi bẫy không có tác dụng thì việc trúng đạn là điều chắc chắn.
 
Chiếc AC-130 cuối cùng bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam vào đêm ngày 21 tháng 12 năm 1972 gần Pakse, Nam Lào. Nhận thấy trước khi bay vào trọng điểm, máy bay AC-130 thường hạ độ cao, bay dọc đường 22 để quan sát, Ban Chỉ huy Trung đoàn 593 đã chọn một quả đồi cách trọng điểm ngầm 22 khoảng hơn 10 &nbsp;km, bí mật lập một trận địa cao xạ 37mm ở đây. Chiếc AC-130 có mật danh ''Spectre 17'', sau khi bắn cháy 3 xe tải đã quay lại tấn công một khẩu đội pháo cao xạ 37mm thì bị một khẩu đội 37mm khác bắn 5 phát đạn trúng gốc cánh trái. Phi hành đoàn Spectre 17 hôm đó có 16 người, 2 người nhảy dù thành công và được trực thăng HH-53 cứu thoát, 14 phi công khác thiệt mạng.
 
Tính tới cuối năm 1972, bộ đội Việt Nam đã bắn hạ 8 chiếc AC-130 trong tổng số 18 chiếc AC-130A/E/H được chế tạo (Mỹ công nhận có 6 chiếc AC-130 bị bắn hạ khiến 52 phi công thiệt mạng). Đây là tổn thất lớn đối với quân Mỹ, vì mỗi chiếc AC-130 rất đắt, chưa kể thiệt hại nhân mạng (mỗi chiếc AC-130 được vận hành bởi 12-14 người). Nhìn thấy kết quả thê thảm trong tương lai, Không quân Hoa Kỳ đã giảm hẳn việc sử dụng AC-130 tại chiến trường Việt Nam.