Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vận mệnh hiển nhiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Vận mệnh hiển nhiên''' ([[tiếng Anh]]: ''Manifest Destiny'') là một niềm tin rằng [[Hoa Kỳ]] có vận mệnh mở rộng lãnh thổ từ duyên hải [[Đại Tây Dương]] đến [[Thái Bình Dương]]. Khái niệm này cũng được sử dụng để hô hào và biện hộ cho việc thu phục các lãnh thổ khác. Những người cổ vũ cho khái niệm "Vận mệnh hiển nhiên" tin rằng mở rộng lãnh thổ không chỉ tốt đẹp mà còn là "hiển nhiên" và là "vận mệnh". Ban đầu, "Manifest Destiny" là một câu có tính cách thời thế chính trị trong thế kỷ 19 nhưng dần dần nó trở thành thuật ngữ chuẩn lịch sử, thường được dùng như đồng nghĩa với việc mở rộng lãnh thổ của [[Hoa Kỳ]] khắp lục địa [[Bắc Mỹ]].
 
Thuật ngữ này đầu tiên được các đảng viên [[Đảng Dân chủ Jackson]] sử dụng lần đầu vào [[thập niên 1840]] để cổ vũ việc sátsáp nhập nhiều vùng đất mà ngày nay là [[tây Hoa Kỳ|miền Tây Hoa Kỳ]] ([[Lãnh thổ Oregon]], [[Cộng hòa Texas]], và [[Nhượng địa Mexico]]). Nó được làm sống lại vào thập niên 1890, lần này là do những người ủng hộ [[Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ)|Đảng Cộng hòa]] dùng như lời bào chữa cho việc mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ bên ngoài [[Bắc Mỹ]]. Thuật ngữ này không được những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ sử dụng trong đầu thế kỷ 20 nhưng một số nhà bình luận tin rằng một số khía cạnh của Vận mệnh hiển nhiên, đặc biệt là niềm tin về một [[sứ mệnh (kinh doanh)|sứ mệnh]] của người Mỹ là làm thăng tiến và bảo vệ nền dân chủ khắp thế giới, tiếp tục có một ảnh hưởng đến ý thức hệ chính trị của người Mỹ.<ref>Stephanson's ''Manifest Destiny: American Expansionism and the Empire of Right'' examines the influence of Manifest Destiny in the 20th century, particularly as articulated by [[Woodrow Wilson]] và [[Ronald Reagan]].</ref>
 
== Văn cảnh và cách diễn giải ==
Dòng 15:
 
== Nguồn gốc ==
Thuật ngữ này được nhà báo [[John L. O'Sullivan]] tạo ra vào năm 1845. Ông lúc đó là một người ủng hộ [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|Đảng Dân chủ]] rất có ảnh hưởng. Trong một bài tiểu luận nhan đề [http://web.grinnell.edu/courses/HIS/f01/HIS202-01/Documents/OSullivan.html "Annexation"] (''sátsáp nhập'') được đăng trong ''Democratic Review'', O'Sullivan hối thúc Hoa Kỳ sátsáp nhập [[Cộng hòa Texas]] không chỉ vì Texas muốn vậy mà vì đó là "''vận mệnh hiển nhiên của chúng ta phủ người của mình khắp lục địa mà Thượng đế đã dành sẵn cho sự phát triển tự nhiên dân số hàng triệu người mỗi năm của chúng ta''".<ref>Howard Zinn, ''A people's history of the United States. 1492 - present'', HarperCollins Publishers, New York,2005, p. 151.</ref> Trong lúc có nhiều tranh cãi, [[Sự sátsáp nhập Texas|Texas bị sátsáp nhập]] ngay sau đó, nhưng việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ "Vận mệnh hiển nhiên" của O'Sullivan đã không gây được nhiều sự chú ý của mọi người.<ref>Robert W. Johannsen, "The Meaning of Manifest Destiny", in Haynes.</ref>
 
Việc O'Sullivan sử dụng thuật ngữ này lần thứ hai đã gây ra sức ảnh hưởng lớn lao. Ngày [[27 tháng 12]] năm [[1845]] qua bài báo của ông đăng trong ''New York Morning News'', O'Sullivan thuyết trình về [[Cuộc tranh chấp biên giới Oregon|cuộc tranh chấp biên giới]] với [[Vương quốc Anh]] tại [[Xứ Oregon]]. O'Sullivan cho rằng Hoa Kỳ có quyền tuyên bố chủ quyền "toàn bộ Xứ Oregon":
Dòng 21:
{{cquote|Và sự tuyên bố chủ quyền dựa trên quyền vận mệnh hiển nhiên của chúng ta là phải phủ người và sở hữu toàn bộ lục địa mà Thượng đế đã dành cho chúng ta để phát triển cái kinh nghiệm vĩ đại về sự tự do và về chính quyền tự chủ liên bang mà chúng ta tin cậy.}}
 
[[Tập tin:John O'Sullivan.jpg|trái|nhỏ|[[John L. O'Sullivan]], được họa vào năm 1874, là một nhà bình luận có ảnh hưởng khi còn là thanh niên, nhưng giờ đây chỉ được nhớ đến vì việc ông sử dụng thuật ngữ "Vận mệnh hiển nhiên" để hô hào sátsáp nhập Texas và Oregon.]]
Có nghĩa là, O'Sullivan tin tưởng rằng Thượng đế đã trao trọng trách cho [[Hoa Kỳ]] sứ mệnh truyền bá [[nền dân chủ cộng hòa]] ("kinh nghiệm vĩ đại về sự tự do") khắp [[Bắc Mỹ]]. Vì [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] sẽ không dùng Oregon cho mục đích truyền bá nền dân chủ, O'Sullivan nghĩ rằng, việc tuyên bố chủ quyền của Anh đối với lãnh thổ nên bị bác bỏ. O'Sullivan tin rằng Vận mệnh hiển nhiên là một lý tưởng đạo đức (một "luật tối thượng") mà có thể thay thế những lý do khác.<ref>Weinberg, p. 145; Johannsen, p. 9.</ref>
 
Khái niệm ban đầu của O'Sullivan về Vận mệnh hiển nhiên không phải là một lời kêu gọi mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực. Ông tin rằng việc mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ sẽ xảy ra mà không cần đến sự hướng dẫn của chính phủ Hoa Kỳ hoặc sự can thiệp quân sự. Sau khi người "Anglo-Saxon" di cư đến những vùng đất mới, họ sẽ thành lập các chính quyền dân chủ mới và rồi sau đó sẽ xin gia nhập vào Hoa Kỳ như Texas đã từng làm vậy. Năm 1845, O'Sullivan tiên đoán rằng [[California]] tiếp theo sau sẽ theo mô hình mẫu này và rồi [[Canada]] dần dần cũng sẽ xin được sátsáp nhập. Ông tỏ vẻ không đồng ý về việc bùng nổ [[Chiến tranh Hoa Kỳ-México|Chiến tranh Mexico-Mỹ]] năm 1846 mặc dù ông tin rằng kết quả sẽ có lợi cho cả hai quốc gia.<ref>Johannsen, p. 10.</ref>
 
O'Sullivan không phải là người phát minh ra cái ý tưởng của Vận mệnh hiển nhiên: trong lúc thuật từ của ông tạo ra một nhãn hiệu hữu dụng về những cảm xúc mà đã trở thành khá phổ biến trong thập niên 1840 nhưng những ý tưởng của chính nó không là mới lạ.
Dòng 45:
Nhiều người Mỹ đồng ý với Paine, và bất chợt tin rằng Hoa Kỳ đã dấn thân vào một kinh nghiệm đặc biệt về sự tự do và dân chủ — và về sự khước từ nền quân chủ [[Cựu Thế giới]] để đón nhận [[chủ nghĩa cộng hòa]] — một sự khai phá mới có tầm quan trọng lịch sử của thế giới. Trong thông điệp gởi [[Quốc hội Hoa Kỳ]] ngày [[1 tháng 12]] năm [[1862]], Tổng thống [[Abraham Lincoln]] đã mô tả Hoa Kỳ như "niềm hy vọng cuối cùng và tốt nhất của Địa Cầu". Đó là một lời phát biểu nổi tiếng về ý tưởng này. Trong bài [[Diễn văn Gettysburg]], Lincoln đã diễn giải [[Nội chiến Hoa Kỳ]] như một cuộc đấu tranh để định đoạt xem có bất cứ quốc gia nào với những ý tưởng Mỹ có thể tồn tại được. Sử gia Robert Johannsen đã gọi bài diễn văn này là "lời nói bền bỉ nhất về sứ mệnh và thuyết vận mệnh hiển nhiên của người Mỹ".<ref>Haynes, pp. 18–19.</ref>
 
Không phải tất cả người Mỹ nào tin tưởng Hoa Kỳ là một quốc gia thiên mệnh đều tin rằng nó phải mở rộng. Các đảng viên Whig đặc biệt cho rằng "sứ mệnh" của Hoa Kỳ chỉ là phục vụ như một mô hình đạo đức cho phần còn lại của thế giới. Nếu Hoa Kỳ thành công như một "thành phố sáng chói trên một ngọn đồi" thì các dân tộc ở các quốc gia khác sẽ tìm cách thiết lập các nền cộng hòa dân chủ cho chính họ. [[Thomas Jefferson]] ban đầu không tin sự cần thiết là Hoa Kỳ phải mở rộng diện tích vì ông tiên đoán rằng các nước cộng hòa khác và tương tự sẽ được thành lập tại [[Bắc Mỹ]] hình thành nên cái ông gọi là một "đế quốc dành cho tự do". Tuy nhiên với [[Vùng đất mua Louisiana|việc mua vùng đất Louisiana]] năm 1803 làm gia tăng gấp đôi diện tích của Hoa Kỳ, Jefferson khởi sự xếp đặt cho việc mở rộng Hoa Kỳ khắp lục địa Bắc Mỹ. Nhiều người bắt đầu thấy nó như sự mở đầu của một "sứ mệnh" mới mà vào năm 1843 [[Andrew Jackson]] đã mô tả nổi tiếng như là "mở rộng vùng tự do". Khi có thêm lãnh thổ được sátsáp nhập vào Hoa Kỳ trong những thập niên kế tiếp, "mở rộng vùng tự do" cũng có hay không có nghĩa là mở rộng chế độ nô lệ. Nó đã trở thành vấn đề trung tâm trong sự chia rẻ ngày càng phát triển về việc diễn giải ý nghĩa "sứ mệnh" của Mỹ.
 
== Tác động đối với sự mở rộng lục địa ==
[[Tập tin:John Quincy Adams.jpeg|nhỏ|John Quincy Adams, họa phẩm năm 1816 của [[Charles Robert Leslie]], là một người ủng hộ chủ nghĩa lục địa từ những ngày đầu. Cuối đời, ông bất chợt hối hận vì vai trò của ông trong việc giúp chế độ nô lệ tràn lan, và sau đó trở thành người dẫn đầu phản đối việc sátsáp nhập Texas.]]
Thuật ngữ "Vận mệnh hiển nhiên" thường có liên hệ nhất với sự mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ từ năm 1815 đến năm 1860. Thời đại đó, từ cuối [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh 1812]] đến lúc bắt đầu [[Nội chiến Hoa Kỳ]], được gọi là "Thời đại Vận mệnh hiển nhiên" Trong suốt thời gian đó, Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ đến [[Thái Bình Dương]] — "[[từ biển đến biển chói sáng]]" — nói chung đã định đoạt biên giới của [[Hoa Kỳ lục địa|Hoa Kỳ Lục địa]] như nó ngày nay.<ref>Stuart and Weeks call this period the "Era of Manifest Destiny" and the "Age of Manifest Destiny," respectively.</ref>
 
Dòng 75:
==== "Cả Oregon" ====
[[Tập tin:Westward the Course of Empire.jpg|phải|nhỏ|350px|Việc mở rộng lãnh thổ về phía tây của người Mỹ được lý tưởng hóa trong bức tranh họa nổi tiếng của [[Emanuel Leutze]] ''Westward the Course of Empire Takes its Way'' (1861). Tên của bức họa có nguồn gốc từ một bài thơ năm 1726 của [[George Berkeley|Bishop Berkeley]] là thuật ngữ thường được trích dẫn trong thời đại Vận mệnh hiển nhiên nhằm nói lên một niềm tin rằng nền văn minh dần dần di chuyển về hướng tây suốt lịch sử. [http://americanart.si.edu/t2go/1lw/1931.6.1.html (đọc thêm bằng tiếng Anh)] ]]
Vận mệnh hiển nhiên đóng vai trò quan trọng nhất trong [[cuộc tranh chấp biên giới Oregon]] với Vương quốc Anh. [[Hiệp định Anh-Mỹ 1818]] kết thúc với thỏa thuận cùng chia sẻ quyền sở hữu [[Xứ Oregon]]. Hàng ngàn người Mỹ đã di cư đến đây trong thập niên 1840 qua [[Đường mòn Oregon]]. Người Anh bác bỏ lời đề nghị của Tổng thống [[John Tyler]] phân chia vùng này theo [[vĩ tuyến 49 độ bắc]] và thay vì thế đã đề nghị một đường biên giới xa về phía nam dọc [[Sông Columbia]] mà đã có thể biến vùng đất bây giờ là [[washington (tiểu bang)|tiểu bang Washington]] thành một phần của [[Bắc Mỹ thuộc Anh]]. Những người ủng hộ Vận mệnh hiển nhiên đã phản đối và kêu gọi sátsáp nhập toàn bộ Xứ Oregon lên đến phân giới Alaska (54°40ʹ bắc). Ứng cử viên tổng thống [[James Knox Polk|James K. Polk]] dùng lời kêu gọi phổ biến này để lấy lợi thế về mình, và những đảng viên [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|Dân chủ]] cũng kêu gọi sátsáp nhập "Cả Oregon" trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1844.
 
Tuy nhiên, với tư cách là tổng thống, Polk đã tái tục đề nghị như trước là phân chia lãnh thổ Oregon dọc vĩ tuyến 49 chống lại ước nguyện của những người cổ võ hăng hái nhất về Vận mệnh hiển nhiên. Khi người Anh bác bỏ lời đề nghị, những người theo chủ nghĩa bành trướng Mỹ đáp lời với khẩu hiệu như "Toàn bộ Oregon hoặc là không!" và "Năm mươi bốn Bốn mươi (54°40ʹ) hay là Đánh!", có ý ám chỉ biên giới phía bắc của Xứ Oregon khi đó lên đến tận đường phân giới Alaska. Khi Polk hành động chấm dứt thỏa thuận cùng chia sẻ quyền sở hữu, người Anh cuối cùng đồng ý phân chia vùng lãnh thổ này dọc theo vĩ tuyến 49, và cuộc tranh chấp được giải quyết qua đường lối ngoại giao bằng [[Hiệp ước Oregon]] năm 1846.
Dòng 82:
 
=== Mexico và Texas ===
Vận mệnh hiển nhiên đã chứng tỏ có kết quả hơn trong mối quan hệ của Hoa Kỳ đối với [[México]]. Năm 1836, [[Cộng hòa Texas]] tuyên bố độc lập khỏi Mexico và sau cuộc [[Cách mạng Texas]], đã tìm cách gia nhập Hoa Kỳ như một tiểu bang mới. Đây là một tiến trình lý tưởng của việc mở rộng lãnh thổ mà đã được cổ vũ từ những người như Jefferson đến O'Sullivan: các tiểu bang độc lập và mới sẽ xin gia nhập Hoa Kỳ hơn là Hoa Kỳ chủ động mở rộng và áp đặt chính phủ của mình lên người dân mà không ưa nó. Tuy nhiên việc sátsáp nhập Texas là một vấn đề gây tranh cãi vì điều đó có nghĩa là thêm một tiểu bang có chế độ nô lệ vào liên bang. Hai vị tổng thống Andrew Jackson và [[Martin Van Buren]] không nhận lời cho Texas gia nhập Hoa Kỳ một phần vì vấn đề nô lệ đe dọa chia rẻ Đảng Dân chủ.
 
Trước cuộc bầu cử năm 1844, ứng cử viên Whig [[Henry Clay]] và ứng cử viên được tiên đoán trước của Đảng Dân chủ là cựu Tổng thống Van Buren đều tuyền tố rằng họ chống đối việc sátsáp nhập Texas. Hai người đều hy vọng đặt đề tài rắc rối này ra ngoài, không để nó trở thành một vấn đề tranh cử. Tuy nhiên không như trông đợi, việc này đã khiến cho Van Buren bị Đảng Dân chủ gạt ra ngoài và chọn Polk người chủ trương sátsáp nhập làm ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ. Polk ràng buộc vấn đề sátsáp nhập Texas với việc tranh chấp Oregon, như thế tạo ra một loại thỏa hiệp giữa các vùng trong vấn đề mở rộng lãnh thổ. Những người chủ trương mở rộng lãnh thổ ở miền Bắc có chiều hướng cổ vũ việc chiếm đóng Oregon trong khi những người chủ trương mở rộng lãnh thổ tại miền Nam chính chủ tập trung vào việc sátsáp nhập Texas. Mặc dù được bầu lên với số tỉ lệ rất khích khao, Polk tiến hành việc sátsáp nhập như thể việc đắc cử tổng thống của ông đã là một sự ủy nhiệm mở rộng lãnh thổ.
 
==== "Cả Mexico" ====
Sau sự đắc cử của Polk, nhưng trước khi ông nhậm chức, Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận [[sátsáp nhập Texas]]. Polk ra tay chiếm đóng một phần Texas mà cũng là phần Mexico tuyên bố chủ quyền làm bùng nổ [[Chiến tranh Hoa Kỳ-México|Chiến tranh Mexico-Mỹ]] vào ngày [[24 tháng 4]] năm [[1846]]. Với những thành công của người Mỹ tại chiến trường vào mùa hè năm 1847, có các lời kêu gọi sátsáp nhập "cả Mexico", đặc biệt là trong số các đảng viên Dân chủ miền Đông. Họ cho rằng mang Mexico vào liên bang là giải pháp tốt nhất để bảo đảm nền hòa bình tương lai trong vùng.<ref>Merk, pp. 144–47.</ref>
 
Đây là một lời đề nghị gây nhiều tranh cãi vì hai lý do. Thứ nhất, những nhà tư tưởng của Vận mệnh hiển nhiên như John L. O'Sullivan luôn luôn cho rằng luật pháp Hoa Kỳ không nên áp đặt vào người khác ngược lại ý nguyện của họ. Sự sátsáp nhập "toàn bộ Mexico" sẽ là một sự vi phạm nguyên tắc này. Và thứ hai, việc sátsáp nhập Mexico có nhiều tranh cãi vì có nghĩa là mở rộng quyền công dân Hoa Kỳ cho hàng triệu người Mexico. Thượng nghị sĩ [[John C. Calhoun]] của [[Nam Carolina]] là người chấp thuận việc sátsáp nhập Texas nhưng lại chống đối việc sátsáp nhập Mexico cũng như khía cạnh "sứ mệnh" của Vận mệnh hiển nhiên vì lý do chủng tộc. Ông đã nói rõ điều này trong một bài diễn văn đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày [[4 tháng 1]] năm [[1848]]:
 
{{cquote|Chúng ta chưa từng mơ đến việc hợp nhất vào liên bang của chúng ta bất cứ chủng tộc nào ngoài chủng tộc Caucasian — chủng tộc da trắng tự do. Hợp nhất Mexico sẽ là một thí dụ đầu tiên về kiểu này, kiểu hợp nhất một chủng tộc [[thổ dân châu Mỹ|da đỏ]]; vì phân nữa người Mexico là người da đỏ, và những người khác phần nhiều là hợp chủng. Tôi phản đối chống lại một liên bang như thế! Chính phủ của chúng ta, thưa ngài, là của một chủng tộc da trắng.... Chúng ta rất đổi khao khát đặt chính phủ tự do lên tất cả; và tôi thấy rằng nó rất cấp bách... rằng đó là sứ mệnh của quốc gia này truyền bá tự do tôn giáo và dân sự khắp thế giới, và đặc biệt trên lục địa này. Đó là một điều lầm lẫn lớn lao.<ref name = Calhoun>{{chú thích web | last = Calhoun | first = John C. | title = Conquest of Mexico | work =
| publisher = TeachingAmericanHistory.org | date = 1848 | url = http://teachingamericanhistory.org/library/index.asp?document=478 | accessdate = ngày 19 tháng 10 năm 2007}}</ref>}}
 
Cuộc tranh luận này đã làm lộ rõ một trong các mâu thuẫn của Vận mệnh hiển nhiên: một mặt, trong khi các ý tưởng kỳ thị chủng tộc vốn cố hữu trong Vận mệnh hiển nhiên cho rằng người Mexico, không phải người da trắng, là một chủng tộc hạ đẳng hơn và vì thế không đủ tư cách trở thành người Mỹ nhưng chủ tố "sứ mệnh" của Vận mệnh hiển nhiên đề nghị rằng người Mexico sẽ được cải biến bằng cách đưa họ vào nền dân chủ Mỹ. Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc được dùng để đề cao Vận mệnh hiển nhiên nhưng trong trường hợp của Thượng nghị sĩ Calhoun và phong trào chống đối sátsáp nhập "Cả Mexico", chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc được dùng để chống đối Vận mệnh hiển nhiên.<ref>McDougall, pp. 87–95.</ref>
 
Vấn đề gây tranh cãi này dần dần kết thúc bởi việc Mexico nhượng lại các lãnh thổ [[Alta California]] và [[Santa Fe de Nuevo México|Nuevo México]] cho Hoa Kỳ. Cả hai vùng đất này có rất ít dân cư hơn những phần đất còn lại của Mexico. Giống như phong trào "Cả Oregon", phong trào "Cả Mexico" nhanh chóng dịu đi. Sử gia Frederick Merk trong tác phẩm ''Manifest Destiny and Mission in American History: A Reinterpretation'' (1963) cho rằng sự thất bại của các phong trào "Cả Oregon" và "Cả Mexico" chứng tỏ Vận mệnh hiển nhiên đã không được ưa chuộng như là các sử gia từ trước tới nay đã diễn tả nó.
Dòng 100:
=== Gây loạn ở phía nam ===
[[Tập tin:WilliamWalker.jpg|nhỏ|phải|Người gây loạn tên [[William Walker (người lính)|William Walker]] đã tiến hành một số cuộc viễn chinh vào châu Mỹ Latinh. Khoảng một thời gian, ông cai trị [[Nicaragua]] mặc dù sau cùng ông bị [[Hải quân Hoa Kỳ]] bắt được và gởi trả ông về Hoa Kỳ. Năm 1860, ông bị bắt và bị hành quyết tại [[Honduras]].]]
Sau khi Chiến tranh Mexico-Mỹ kết thúc năm 1848, sự bất đồng về việc mở rộng chế độ nô lệ đã làm cho việc sáp nhập lãnh thổ càng thêm chia rẽ đến nổi việc sátsáp nhập lãnh thổ không trở thành là chính sách chính thức của chính phủ. Người miền bắc càng ngày càng chống đối cái mà họ tin là những nỗ lực của những người chủ nô lệ ở miền nam và bạn bè của họ tại miền bắc muốn mở rộng chế độ nô lệ bằng mọi giá.
 
Không có sự ủng hộ chính thức của chính phủ, những người cổ vũ cấp tiến nhất của Vận mệnh hiển nhiên càng ngày càng quay sang động thái gây loạn bằng quân sự. Trong khi có một số các cuộc phiêu lưu gây rối tại Canada vào cuối thập niên 1830, mục tiêu chính yếu của những người gây loạn theo thuyết Vận mệnh hiển nhiên là [[mỹ Latinh|châu Mỹ Latinh]], đặc biệt là Mexico và [[Cuba]]. Mặc dù bất hợp pháp nhưng các hành động gây rối vào cuối thập niên 1840 và đầu thập niên 1850 được tiểu thuyết hóa trên truyền thông Hoa Kỳ. Những người Mỹ giàu có theo chủ nghĩa bành trướng đã tài trợ hàng tá các cuộc viễn chinh, thường thường có căn cứ xuất phát từ [[New Orleans]].
 
Hoa Kỳ từ lâu rất có hứng thú trong việc mua [[Cuba]] từ [[Đế quốc Tây Ban Nha]] đang thời suy tàn. Như đối với Texas, Oregon, và California, những nhà làm chính sách của Mỹ rất quan ngại rằng Cubla sẽ rơi vào tay của người Anh, mà theo tư tưởng của [[Học thuyết Monroe]] sẽ tạo ra một mối đe dọa đến quyền lợi của Hoa Kỳ. Vào năm 1848, vì sự thúc giục của John L. O'Sullivan, Tổng thống Polk đề nghị mua Cuba từ Tây Ban Nha với giá 100 triệu [[đô la Mỹ]]. Polk sợ rằng những người gây bạo loạn có thể làm hỏng nỗ lực của ông trong việc mua quốc đảo này, vì vậy ông đã thông báo cho người Tây Ban Nha biết về một âm mưu của một người Cuba tên [[Narcisco Lopez]] có ý dùng vũ lực để đoạt chiếm Cuba và sátsáp nhập nó vào Hoa Kỳ. Kết quả là âm mưu đó bị phá vở. Dẫu thế Tây Ban Nha vẫn từ chối bán hòn đảo và nỗ lực mua Cuba của Polk kết thúc trong thất bại. O'Sullivan mặc khác tiếp tục gây quỹ cho các cuộc viễn chinh gây loạn và cuối cùng thì cũng khiến ông rơi vào vấn đề pháp lý.<ref name="Tread">{{chú thích sách|last=Crocker III|first=H. W.|title=Don't Tread on Me|publisher=Crown Forum|date=2006|location=New York|pages=150|isbn=9781400053636}}</ref>
 
Các vụ gây loạn tiếp tục là một mối quan tâm chính đối với các tổng thống kế nhiệm Polk. Các tổng thống thuộc [[Đảng Whig (Hoa Kỳ)|Đảng Whig]] là [[Zachary Taylor]] và [[Millard Fillmore]] đã tìm cách trấn áp các cuộc viễn chinh. Khi Đảng Dân chủ chiếm lại được tòa bạch ốc vào năm 1852 bằng sự việc đắc cử của [[Franklin Pierce]], một nỗ lực gây loạn của [[John A. Quitman]] nhằm chiếm Cuba nhận được sự ủng hộ lớn lao của tổng thống. Tuy nhiên, Pierce rút lui sự ủng hộ và thay vào đó lại tái đề nghị mua hòn đảo với giá 130 triệu. Năm 1854, khi công chúng biết về [[Tuyên ngôn Ostend]] cho rằng Hoa Kỳ có thể chiếm hữu Cuba bằng vũ lực nếu như Tây Ban Nha từ chối bán nó, sự việc này thực sự kết thúc nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm thu phục Cuba. Công chúng lúc này coi việc mở rộng lãnh thổ có liên quan đến chế độ nô lệ. Nếu Vận mệnh hiển nhiên đã có một thời được sự hậu thuẫn rộng rãi của công chúng thì chuyện này giờ đây không còn là sự thật.<ref>Weeks, pp. 144–52.</ref>
Dòng 118:
Khi Nội chiến Hoa Kỳ nhạt dần trong lịch sử, thuật ngữ Vận mệnh hiển nhiên trải qua một cuộc hồi sinh ngắn ngũi. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1892, liên danh của [[Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ)|Đảng Cộng hoà]] tuyên bố: "Chúng tôi tái xác nhận ủng hộ [[Học thuyết Monroe]] và tin vào thành tựu vận mệnh hiển nhiên của nền cộng hòa theo ý nghĩa rộng của nó." Cái nghĩa được ám chỉ bằng thuật ngữ "vận mệnh hiển nhiên" trong văn mạch này thì không được định nghĩa rõ ràng, đặc biệt kể từ khi liên danh Đảng Cộng hòa bị thất cử. Tuy nhiên trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1896, liên danh Đảng Cộng hòa đã tái chiếm lại được Tòa Bạch Ốc và giữ vững nó trong 16 năm tiếp theo. Trong thời gian đó, Vận mệnh hiển nhiên được nói đến để hô hào việc mở rộng lãnh thổ hải ngoại. Không biết phiên bản Vận mệnh hiển nhiên trong giai đoạn này có hay không có điểm tương đồng với chủ nghĩa bành trướng lục địa của thập niên 1840. Việc này đã bị tranh cãi vào lúc đó và một khoảng thời gian dài về sau.<ref>Republican Party [http://www.presidency.ucsb.edu/showplatforms.php?platindex=R1892 platform]; context not clearly defined, Merk p. 241.</ref>
 
Chẳng hạn, khi Tổng thống [[William McKinley]] hô hào sátsáp nhập [[Lãnh thổ Hawaii]] năm 1898, ông nói rằng "Chúng ta rất cần Hawaii và đây là một món bở hơn là chúng ta có được California. Đó là vận mệnh hiển nhiên". Mặc khác, cựu Tổng thống [[Grover Cleveland]], một đảng viên Dân chủ từng ngăn cản việc sátsáp nhập Hawaii trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, đã viết rằng việc sátsáp nhập lãnh thổ của McKinley là một "sự sai lầm về vận mệnh quốc gia của chúng ta". Các sử gia tiếp tục cuộc tranh luận này. Một số diễn giải việc bành trướng ở hải ngoại trong thập niên 1890 như là một sự mở rộng Vận mệnh hiển nhiên ngang qua [[Thái Bình Dương]]. Những sử gia khác thì nhận định nó như sự tương phản của Vận mệnh hiển nhiên.<ref>McKinley quoted in McDougall, pp. 112–13; "anithesis" of Manifest Destiny: Merk, p. 257.</ref>
 
=== Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và Philippines ===
Năm 1898, sau sự kiện chiến hạm [[USS Maine (ACR-1)|USS ''Maine'']] chìm trong bến cảng tại [[La Habana]] của [[Cuba]], Hoa Kỳ can thiệp bên cạnh quân nổi dậy người Cuba nổi lên chống [[Đế quốc Tây Ban Nha]] làm khởi sự [[Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ]]. Mặc dù, những người cổ vũ Vận mệnh hiển nhiên trong thập niên 1840 đã kêu gọi sátsáp nhập Cuba nhưng [[Tu chính Teller]], được Thượng viện Hoa Kỳ nhất trí thông qua trước chiến tranh, tuyên bố Cuba "độc lập và tự do" và từ chối bất cứ sự can thiệp nào của Hoa Kỳ nhằm sátsáp nhập Cuba. Sau chiến tranh, [[Tu chính Platt]] (1902) thành lập Cuba giống như một [[đất bảo hộ]] thực sự của Hoa Kỳ. Nếu Vận mệnh hiển nhiên đồng nghĩa với sự sátsáp nhập lãnh thổ triệt để thì nó không còn được áp dụng đối với Cuba vì Cuba chưa bao giờ bị sátsáp nhập.
 
Không như Cuba, Hoa Kỳ sátsáp nhập [[Guam]], [[Puerto Rico]], và [[Philippines]] sau chiến tranh với Tây Ban Nha. Sự thu phục các đảo này đánh dấu một chương mới trong [[lịch sử Hoa Kỳ]]. Theo truyền thống thì các lãnh thổ bị Hoa Kỳ thu phục nhằm mục đích trở thành các tiểu bang mới ngang hàng với các tiểu bang đã tồn tại. Tuy nhiên các đảo này được thu phục như là các thuộc địa hơn là các tiểu bang tương lai. Một quá trình được nghiên cứu trong nhiều vụ xem xét mà trong đó [[Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ]] đã phán quyết rằng quyền hiến pháp đầy đủ không tự động được áp dụng cho tất cả các vùng nằm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Theo ý nghĩa này thì việc sáp nhập là một sự làm trái ngược Vận mệnh hiển nhiên truyền thống. Theo Frederick Merk, "Vận mệnh hiển nhiên đã chứa đựng trong đó một nguyên tắc rất cơ bản đến nỗi mà một người theo chủ nghĩa Calhoun và một người theo chủ nghĩa O'Sullivan có thể đồng thuận với nhau. Điều đó có nghĩa là một dân tộc không có khả năng đứng dậy để trở thành một tiểu bang thì không nên bị sátsáp nhập vào Hoa Kỳ. Đó là nguyên tắc được chủ nghĩa đế quốc năm 1899 mang theo bên mình."<ref>Merk quote, p. 257</ref> (Philippines sau đó được trao trả độc lập năm 1946; Guam và Puerto Rico được tư cách đặc biệt cho đến ngày hôm nay nhưng người dân của họ có quyền công dân Hoa Kỳ đầy đủ.)
 
Mặt khác, Vận mệnh hiển nhiên cũng có chứa đựng trong nó cái ý tưởng rằng các dân tộc "kém văn minh" có thể được biến cải qua sự tiếp xúc với các giá trị dân chủ và Cơ đốc giáo của Hoa Kỳ. Khi quyết định sátsáp nhập Philippines, Tổng thống McKinley có nhắc lại chủ tố này: "Không còn gì cho chúng ta làm ngoài việc bắt họ hết, và giáo dục người Philippines, nâng đỡ, văn minh hóa và cải đạo Cơ đốc cho họ...." Bài thơ của [[Rudyard Kipling]] "''The White Man's Burden''" trong đó có tiểu tựa đề "Hoa Kỳ và Quần đảo Philippine" là một lời diễn đạt nổi tiếng về những ẩn ý này, rất phổ biến vào thời đó. Tuy nhiên, nhiều người Philippines chống đối nỗ lực nhằm "nâng đỡ và văn minh hóa" họ khiến xảy ra cuộc [[Chiến tranh Phillipines-Mỹ]] năm 1899. Sau khi chiến tranh bùng nổ, [[William Jennings Bryan]], một người phản đối sự bành trướng ở hải ngoại, viết rằng "Vận mệnh không phải hiển nhiên như một vài tuần trước đây."<ref>McKinley quoted in McDougall, p. 112; Bryan quoted in Weinberg, p. 283.</ref>
 
=== Sử dụng sau đó ===