Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đàn tranh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 142:
 
Tư thế: Bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, [[cổ tay]] tròn lại, hạ dần về phía trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn, cánh tay cũng hạ khép dần lại (tránh không đưa cánh tay ra phía ngoài). Ba ngón tay gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng lên hay hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh gãy ngón, móc dây.
 
====Kỹ thuật: "Thác"====
 
- Kỹ thuật "thác" ({{zh|s=
托|p=Tuō}}): dùng ngón cái diễn tấu. Giai đoạn mới học có 2 cách diễn tấu của thủ pháp "thác" gồm "giáp"
({{zh|s=夹|p=TuōJiā}}): dùng ngón cái diễn tấu. Giai đoạn mới học có 2 cách diễn tấu của thủ pháp "tuo" gồm "giáp" và "đề" ({{zh|s=提|p=tí}}). "Giáp" thông thường ứng dụng vào 2 tình huống: một là người mới học và ổn định thủ hình. Hai là khi diễn tấu nhạc khúc truyền thống (dân ca và [[nhạc cổ phong Trung Quốc]]) được vận dụng khá nhiều. "Đề" vận dụng rất nhiều trong các nhạc khúc hiện đại, nhất là [[nhạc Trung Quốc phong]]. Thủ pháp "Tuo" (ký hiệu là góc vuông). Biểu thị dùng thủ pháp "Tuothác" diễn tấu âm trung Sol (tương đương với dây số 5 của cổ tranh). Dùng ngón áp út và ngón út đặt tự nhiên trên dây đàn. Ngón cái hướng về phía trước cơ thể gảy đàn. Sau khi gảy xong, thuận thế rơi vào dây tiếp theo. Bước đầu, đặt dây lấy âm trung Sol làm ví dụ; tay phải ở trạng thái nửa nắm tay. Cổ tay để nằm ngang và mở cánh tay ra. Đặt ngón tay nhẹ nhàng lên âm trung Sol. Ngón áp út và ngón út tự nhiên chống trên dây đàn ("ghim cọc"). Trong cách diễn tấu truyền thống, ngoài ra ngón tay thả lỏng. Ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út tay phải khép lại trong khi ngón cái và ngược lại ón út thả lỏng tự nhiên. Dùng phần thịt đầu ngón tay đặt trên dây đàn phía bên trái con nhạn. Vị trí đặt dây cách con nhạn khoảng 15 - 20cm.
Lưu ý :
 
Hàng 156 ⟶ 158:
4. Vị trí đặt dây căn cứ vào độ to nhỏ của dây mà xác định.
 
5. Khi tay phải diễn tấu, tay trái đặt trên dây đàn bên trái của con nhạn tạo thành thói quen diễn tấu tốt. Khi tay trái đặt dây thì ngón cái và ngón út cấm nhếch lên; cũng không được kẹp chặt ngón tay hoặc nép vào lòng bàn tay. Sau khi nắm được cách thức đặt dây chính xác, người chơi sẽ diễn tấu "giáp" theo thủ pháp "thác": đặt dây trước rồi ngón cái dùng đốt bàn tay kéo theo ngón tay.
====Ngón Á====
 
 
 
 
- Ngón Á: là một lối gảy rất phổ biến của đàn tranh và đàn sắt cũng như cổ tranh Trung Quốc, đây là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường ngón Á hay ở vào phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối câu nhạc.
 
Hàng 173 ⟶ 172:
- Ngón vê: là sử dụng ngón tay phải ngón 2 hoặc kết hợp ngón 1-2; 1-3; 1-2-3, gảy trên dây liên tục và các ngón khác phải khum tròn, [[cổ tay]] kết hợp với ngón tay đánh xuống, hất lên đều đặn. Khi vê đầu móng gảy không nên đặt quá sâu xuống dây sẽ tạo tiếng đàn không đều đặn, êm ái.
 
===Kỹ thuật bàn tay trái===
 
Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa,đeo nhẫnáp út) chụm lại, ngón cái và ngón út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung, nhấn, bàn tay được nâng lên mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc chuyển từ dây nọ sang dây kia.
 
====Kỹ thuật: rung âm====
Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy. Nó là 1 kỹ thuật tay trái vô cùng quan trọng trong diễn tấu cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó tô điểm vẻ đẹp, trau chuốt và kéo dài cùng nhiều tác dụng khác cho nhạc khúc. Chủng loại của rung âm rất nhiều. Sau khi tay phải gảy gây xong thì tay trái nhấn, thả trên dây đàn tương ứng bên trái con nhạn; khiến cho âm mà tay phải gảy sản sinh hiệu quả rung động dạng sóng có quy luật. Diễn tấu rung âm cần 1 quá trình huấn luyện lâu dài. Lúc đầu mới học, luyện tập với tốc độ chậm trước, nắm được cách phát lực và thả lỏng chính xác. Sau khi thành thục mới tiến hành luyện tập tăng tốc.
- Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy.
 
+ Nhấn dây tay trái: Tay phải đặt cần bằng trên hộp điều âm, tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay. Nhấn thả dây đàn lên xuống chậm rãi đều đặn. Mỗi 1 nhịp có 2 động tác nhấn & thả, sau mỗi lần nhấn phải ngay lập tức thả ra. Tay trái và phải đặt dây chính xác trên trung âm 5 (Sol). Sau khi tay phải gảy trung âm 5 thì tay trái trên dây đàn tương ứng với bên trái con nhạn. Nhấn, thả dây đàn đều đặn. Khi người chơi mới học rung âm có thể áp dụng phương pháp luyện tập đếm nhịp. Tay phải gảy trung âm 5. Sau mỗi lần nhấn dây phải lập tức thả ra. Sau khi nắm vững diễn tấu chậm, tăng tốc độ nhấn dây thích hợp cho tay trái. Lưu ý:
- Ngón nhấn (hoạt âm): là ngón sử dụng để đánh thêm được những âm khác có thể là 1/2 âm, 1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống dây đàn Tranh không có. Cách nhấn là sử dụng ba đầu ngón tay trái nhấn xuống tùy theo yêu cầu của bài (nửa cung nhấn nhẹ, 1 cung nhấn nặng hơn) nghệ nhân dùng tai nghe để điều chỉnh tay nhấn.
 
- Ngón nhấn luyến: là ngón sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến:
1. Khi tay trái nhấn dây, vai phải thả lỏng. Sức lực của cánh tay trái nén xuống tự nhiên tập trung vào đầu ngón tay. Sau khi nhanh chóng nhấn dây thì lấp tức trở về vị trí cũ.
2. Biên độ nhấn của tay trái bắt buộc phải nhỏ mà đều đặn. Tuyệt đối không được làm biến đổi độ cao của âm gốc. Thứ tự diễn tấu của tay trái & phải là gảy trước rồi rung sau. Tay trái nhấn và thả dây đàn trên dư âm sau khi tay phải gảy đàn. Nghiêm cấm làm cả 2 tay cùng 1 lúc.
====Ngón nhấn luyến (hoạt âm)====
- Ngónthủ nhấn luyến: là ngónpháp sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến:
 
a. Nhấn luyến lên (hoạt âm lên): nghệ nhân gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa.
Hàng 191 ⟶ 194:
- Ngón nhún: là cách nhấn liên tục trên một dây nào đó làm cho âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc. Ngón tay nhún tạo thành những làn sóng có giao động lớn hơn ở ngón rung, làm cho âm thanh thêm mềm mại, tình cảm sâu lắng.
 
====Ngón vỗ====
- Ngón vỗ: là một kiểu ngón nhấn như đúng như tên gọi, đây là cách dùng hai hay ba đầu ngón tay (ngón trỏ, giữa, áp út) vỗ lên một dây nào đó phía bên trái nhạn đàn vừa được gảy, và nhấc ngay các ngón tay lên làm âm thanh cao lên đột ngột từ nửa cung đến một cung. Có hai loại vỗ:
 
a. Vỗ đồng thời: tức là cùng lúc tay phải gảy dây, tay trái vỗ sẽ nghe thấy hai âm: một âm phụ cao hơn nửa cung hoặc 1 cung luyến nhanh ngay xuống âm chính (âm phụ do ngón tay trái vỗ tạo nên).
 
a. Vỗ đồng thời: tức là cùng lúc tay phải gảy dây, tay trái vỗ sẽ nghe thấy hai âm: một âm phụ cao hơn nửa cung hoặc 1 cung luyến nhanh ngay xuống âm chính (âm phụ do ngón tay trái vỗ tạo nên).b. Vỗ sau: tay phải gảy dây xong, tay trái mới vỗ lên dây, như vậy sẽ nghe thấy 3 âm luyến: âm thứ nhất do tay phải gảy lên dây, âm thứ hai do ngón vỗ tạo nên, âm nầy cao hơn âm thứ nhất khoảng nửa cung hoặc 1 cung tiếp đó là âm thứ ba do ngón tay vỗ xong nhấc lên ngay, dây đàn được trở lại trạng thái cũ, âm thanh còn lại vang lên theo độ căng của dây đó lúc đầu.
- Ngón vuốt: tay phải gảy đàn tiếp theo dùng hai, ba ngón tay trái vuốt lên dây đàn đó từ nhạn đàn ra trục dây hay ngược lại làm tăng sức căng của dây một cách đều đều, liên tục. Âm thanh được nâng cao dần lên trong phạm vi 1/2 cung đến 1 cung.