Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Triều Tiên (Trung Quốc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 12:
 
== Lịch sử ==
 
Trong suốt chiều dài lịch sử, do mối quan hệ chặt chẽ giữa Trung Quốc và Triều Tiên, việc di dân xảy ra một cách thường xuyên giữa hai quốc gia láng giềng. Đã có những ghi chép về việc di cư của người nhập cư Triều Tiên vào đầu [[nhà Thanh]], [[nhà Minh]], [[nhà Nguyên]], [[nhà Đường]] và thậm chí là từ trước đó. Phần lớn những người di cư Triều Tiên này đã đồng hóa vào xã hội Trung Hoa. Hiện số người dân tộc Triều Tiên tại Trung Quốc chủ yếu là hậu duệ của những người di cư từ năm 1860 đến năm 1945. Trong những năm 1860, một loạt thiên tại đã xảy ra tại Triều Tiên, dẫn đến nạn đói thảm khốc. Cùng với sự nới lỏng kiểm soát biên giới và chấp nhận di dân từ bên ngoài đến vùng Đông Bắc Trung Quốc của nhà Thanh, nhiều người Triều Tiên đã lựa chọn di cư. Khoảng năm 1894, một ước tính cho thấy có 34.000 người Triều Tiên sống ở Trung Quốc, với số lượng ngày càng tăng và lên 109.500 vào năm 1910. Sau khi Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, nhiều người Triều Tiên đã di chuyển đến Trung Quốc. Một số chỉ đơn thuần là chạy trốn khỏi ách cai trị của Nhật Bản hoặc do khó khăn kinh tế, trong khi những người khác có ý định tận dụng Trung Quốc như là một cơ sở cho các phong trào kháng chiến chống Nhật của họ. Đến năm 1936, đã có 854.411 người Triều Tiên ở Trung Quốc. Khi Nhật Bản mở rộng phạm vi chiếm đóng sang Trung Quốc, chính phủ Nhật đã buộc nhiều nông dân Triều Tiên di chuyển về phía bắc tới Trung Quốc để khai khẩn đất đai. Trong Chiến tranh thế giới II, nhiều người Triều Tiên ở Trung Quốc đã tham gia cùng nhân dân Trung Quốc trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nhật Bản. Nhiều người cũng đã gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc và chiến đấu chống lại quân đội [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc Dân Đảng Trung Quốc]] trong thời kỳ [[Nội chiến Trung Quốc]], song song với một lượng lớn không nhỏ người Triều Tiên khác, chủ yếu ủng hộ [[Kim Gu]], thủ lĩnh kháng chiến Triều Tiên, cũng ủng hộ Quốc dân Đảng chống lại phe cộng sản. Sau năm 1949, ước tính có khoảng 600.000 người, tương đương 40% vào thời điểm đó, đã chọn lựa hồi hương về bán đảo Triều Tiên, phần vì lo sợ bị những người cộng sản thanh trừng. Những người còn lại đã chọn ở lại Trung Quốc và đã nhận quốc tịch Trung Quốc từ 1949 (kết thúc Nội chiến Trung Quốc) đến năm 1952.
 
=== Từ 1949 ===
 
Sau khi thành lập [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]], nhiều người Trung Quốc gốc Triều Tiên đã gia nhập "quân chí nguyện nhân dân" để chiến đấu cùng [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]] trong [[Chiến tranh Triều Tiên]].<ref name="RCPU">{{chú thích sách|title=Korea & World Affairs|publisher=Research Center for Peace and Unification|year=1989|page=509}}</ref> Hầu hết người Trung Quốc gốc Triều Tiên có nguồn gốc từ vùng [[Hamgyong]] của Bắc Triều Tiên, và nói [[phương ngữ Hamgyŏng]] của [[Tiếng Triều Tiên tại Trung Quốc|tiếng Triều Tiên]].<ref name="Armstrong">{{chú thích sách|title=The Koreans|author=Armstrong, Charles K.|authorlink=Charles K. Armstrong|publisher=[[CRC Press]]|year=2007|pages=112–114|quote=Until about the mid-1980s, China's ''Chaoxianzu'' ("Korean nationality", ''Chosŏnjok'' in Korean pronunciation) was politically and culturally close to North Korea, and had little contact with—indeed, was officially quite hostile toward—South Korea. The term ''Chosŏn'' itself was the North Korean word for Korea, as opposed to ''Hanguk'', the term used in South Korea.... [T]he ethnic Koreans publicly praised North Korean leader Kim Il Sung as a great patriot and independence fighter, albeit not with the degree of veneration the North Koreans themselves gave him.}}</ref> [[Diên Biên|Châu tự trị dân tộc Triều Tiên Diên Biên]] được thành lập vào năm 1952 với cấp ban đầu là huyện, và được nâng lên cấp châu năm 1955.<ref name="RCPU"/> [[Trường Bạch (huyện tự trị)|Huyện tự trị dân tộc Triều Tiên Trường Bạch]] đã được thành lập ở tỉnh [[Cát Lâm]], ngoài ra còn có một số khu vực tự trị khác của người Triều Tiên tại [[Hắc Long Giang]], [[Liêu Ninh]], và [[Nội Mông]].<ref name="Armstrong"/> Tuy nhiên, khoảng năm 1990 trở lại đây dân số dân tộc Triều Tiên ở Diên Biên đã giảm xuống do di cư. Tỷ lệ dân tộc Triều Tiên ở đây đã giảm từ 60,2% năm 1953 xuống 36,3% năm 2000. Sự thay đổi này phản ánh những biến động trong xã hội của người dân tộc Triều Tiên do nền kinh tế tăng trưởng cao của Trung Quốc. Người Triều Tiên là một trong những dân tộc có trình độ giáo dục cao nhất tại Trung Quốc,<ref>{{chú thích sách|title=Overseas Koreans|author=Yi, Kwang-gyu|year=2000|publisher=Jimoondang|page=53}}</ref> và được coi là mẫu mực cho các dân tộc thiểu số.<ref>{{chú thích sách|title=Social Stratification in Chinese Societies|first=Kwok-bun|last=Chan|first2=Agnes|last2=Ku|last3=Chu|first3=Yin-wah|publisher=[[Brill Publishers]]|year=2009|page=226}}</ref>. Tiếng Triều Tiên cũng được nhà nước khuyến khích, và hầu hết người Triều Tiên tham gia các kỳ thi tuyển lên các bậc học cao hơn băng tiếng Triều Tiên.<ref>{{chú thích sách|title=Autonomy, Ethnicity, and Poverty in Southwestern China: The State Turned Upside Down|first=Chi-yu|last=Shih|first2=Zhiyu|last2=Shi|publisher=[[Macmillan Publishers]]|year=2007|page=79}}</ref>
 
Hàng 27 ⟶ 25:
 
Mặc dù người dân tộc Triều Tiên trong quá khứ hiếm khi kết hôn với các dân tộc khác, nhưng hiện điều này đang tăng lên.<ref>http://www.kookje.co.kr/news2006/asp/center.asp?gbn=v&code=1700&key=20081016.22031211442</ref> Lý Đức Thù (李德洙), người đứng đầu về vấn đề dân tộc Triều Tiên của Ủy ban Sự vụ Dân tộc, đã vô ý để lộ một sự thay đổi trong chính sách dân tộc của Trung Quốc từ tôn trọng các khác biệt sang đồng hóa.<ref>{{chú thích báo| title = 西藏局势仍为西方媒体关注焦点| work = [[BBC|BBC News]]| publisher = [[bbc.co.uk]]| date = ngày 25 tháng 3 năm 2008 |url =http://news.bbc.co.uk/chinese/simp/hi/newsid_7310000/newsid_7313000/7313033.stm| accessdate = ngày 23 tháng 2 năm 2010}}</ref> Mặc dù vậy, người Trung Quốc gốc Triều Tiên thường coi họ có chung một di sản văn hóa với những người ở [[Bán đảo Triều Tiên]] nhưng vẫn xem mình là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc. Một vài người gốc Triều Tiên đã tham gia sâu rộng vào "Công trình Đông Bắc của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, một dự án nghiên cứu quan hệ thời cổ của lịch sử Trung-Triều và bị chính phủ Hàn Quốc lên án.<ref>{{chú thích web | url = http://www.chosun.com/national/news/200609/200609140053.html | tiêu đề = 국내학자들 “조선족 학자 앞세워 충격적” | author = | ngày = | ngày truy cập = 24 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Một số sinh viên người Trung Quốc gốc Triều Tiên du học tại Hàn Quốc thậm chí còn tham gia ẩu đả chống lại những người biểu tình Hàn Quốc phản đối rước đuốc Olympic Bắc Kinh năm 2008.<ref>{{chú thích web | url = http://news.khan.co.kr/kh_news/khan_art_view.html?artid=200804292332305&code=940100 | tiêu đề = 중국인 폭력에 ‘폭력’ 대응 안된다 | author = | ngày = | ngày truy cập = 24 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
 
=== Chú thích ===
{{Thamtham khảo|2}}
 
== Tham khảo ==
 
=== Chú thích ===
{{Tham khảo|2}}
 
=== Nguồn ===
 
* {{chú thích|url=http://www.hrnk.org/refugeesReport06.pdf|title=The North Korean Refugee Crisis: Human Rights and International Response|month=December|year=2006|accessdate = ngày 16 tháng 1 năm 2007 |last=Haggard|first=Stephen|publisher=U. S. Committee for Human Rights in North Korea|format=PDF |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070303203248/http://www.hrnk.org/refugeesReport06.pdf <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = ngày 3 tháng 3 năm 2007}}
* {{chú thích|chapter=The Economic Status and Role of Ethnic Koreans in China|title=The Korean Diaspora in the World Economy|last=Kim|first=Si-joong|pages=101–131|publisher=Institute for International Economics|url=http://www.iie.com/publications/chapters_preview/365/6iie3586.pdf|year=2003|format=PDF}}