Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Việt Quốc dân Đảng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thonn141 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 28:
| ghi chú =
}}
'''Đại Việt Quốc dân -Đảng''', thường được gọi tắt là '''Đảng Đại Việt''', là một [[đảng phái chính trị]] của [[Việt Nam]], thành lập từ năm [[1939]]. Đảng Đại Việt là một trong những [[Đảng phái chính trị|đảng chính trị]] có vai trò quan trọng trong [[lịch sử Việt Nam]] suốt từ khi thành lập đến năm [[1975]]. Trong quá trình hoạt động, các đảng viên Đại Việt nhiều lần phân hóa, sáp nhập, dẫn đến sự hình thành nhiều hệ phái khác nhau. Sau năm [[1975]], hầu như các hoạt động chính trị của đảng viên Đại Việt đều ở hải ngoại.
 
* Đảng ca: ''Việt Nam minh châu trời Đông''.
Dòng 34:
===Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn===
{{Chính|Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn}}
[[File:Trương Tử Anh.jpg|thumb|right|200px|Chân dung lãnh tụ [[Trương Tử Anh]] năm 1946.|liên_kết=Special:FilePath/Trương_Tử_Anh.jpg]]
Năm [[1934]], [[Trương Tử Anh]], người [[Phú Yên]], ra [[Hà Nội]] theo học Luật khoa [[Viện Đại học Đông Dương]]. Là một người có tinh thần dân tộc, trong thời gian học tập, ông chú ý nghiên cứu nhiều về các triết thuyết, các chủ nghĩa chính trị đang thịnh hành trên thế giới thời bấy giờ. Trong các tiểu luận viết từ năm 1935, ông từng viết: ''"Những triết thuyết, những chủ nghĩa chính trị đương thời đều không thích hợp với dân tộc Việt Nam và đều có sai lầm"''. Từ đó, ông manh nha việc xây dựng một chủ thuyết của riêng nhằm định hướng cho những hoạt động chính trị của mình về sau này.
 
Dòng 48:
 
===Tổ chức ban đầu===
Cơ cấu trung ương đầu tiên của Đảng gồm 16 người với Trương Tử Anh làm Đảng trưởng, có trụ sở đặt ở [[Hà Nội]]. Trung ương trực tiếp điều hành Xứ bộ Bắc Việt trong khi Trung Việt và Nam Việt có xứ bộ riêng<ref>Hà Thúc Ký. tr 111-2</ref>. Ngoài ra Đảng còn có nhân sự hoạt động ở [[Lào]] và [[Cao Miên]]. Bên cạnh đó, một chi bộ Đảng đặc biệt được thành lập ở Phú Yên được gọi là Chi bộ Đảng -trưởng đặt dưới quyền trực tiếp của Trung ương. Những đảng viên chủ chốt bấy giờ có [[Nguyễn Tiến Hỷ]], Nguyễn Sĩ Dinh, Phan Cảnh Hoàng, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, [[Nguyễn Tôn Hoàn]], Nguyễn Định Quốc, [[Đặng Xuân Tiếp]], [[Đặng Vũ Lạc]], [[Ngô Gia Hy]], Đặng Văn Sung, [[Bùi Diễm]], [[Trần Trung Dung]], [[Nguyễn Đình Luyện]], [[Phan Huy Quát]], [[Lê Thăng]], [[Bửu Hiệp]], [[Hà Thúc Ký]], Hoàng Xuân Tửu, Dương Thiệu Di. Nguyễn Tôn Hoàn được giao phó làm phát ngôn viên của Đảng và liên lạc viên giữa các Xứ bộ.<ref>[http://daivietquocdandang.org/2010/02/16/lichsudang-2/ Đại Việt Quốc dân Đảng, Lịch sử]</ref>
 
===Mặt trận Đại Việt Quốc gia Liên minh và Ủy ban Chính trị Bắc Kỳ ===
Dòng 56:
=== Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam ===
[[Tập tin:Flag of VNQDD.svg|phải|nhỏ|Cờ hiệu của Đại Việt Quốc dân Đảng, sau dùng chung cho Mặt trận Quốc dân Đảng kể cả [[Việt Nam Quốc dân Đảng]]]]
Sau khi giành được chính quyền, ngày [[5 tháng 9]] năm [[1945]], nhân danh Chủ tịch [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], Bộ trưởng Nội vụ [[Võ Nguyên Giáp]] đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể [[Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng|Đại Việt Quốc gia Xã hội-Đảng]] và Đại Việt Quốc dân Đảng vì cho rằng ''"Đại Việt quốc gia xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam và '''Đại Việt Quốc dân Đảng''' đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam"''<ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=7&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= Sắc lệnh số 8 ngày 5 tháng 9 năm 1945]</ref><ref>Ý chỉ việc cộng tác với người Nhật.</ref>
 
Việc giải tán Đại Việt Quốc dân Đảng đã làm các đảng viên Đại Việt mất khả năng tham chính. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc [[Quốc hội Việt Nam khóa I|Tổng tuyển cử]], ngày [[15 tháng 12]] năm [[1945]], Đại Việt Quốc dân đảng cùng với [[Việt Nam Quốc dân đảng|Việt Nam Quốc dân-đảng]] (lãnh tụ là [[Vũ Hồng Khanh]]) và [[Đại Việt Dân Chính Đảng|Đại Việt Dân Chính-Đảng]] (lãnh tụ là [[Nguyễn Tường Tam]]) thành lập '''Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam''' để chống lại "phe Cộng sản". Cờ hiệu của Đại Việt là lá cờ nền đỏ, tròng xanh, sao trắng và ca khúc "Việt Nam Minh châu trời đông" của [[Hùng Lân]] được dùng chung cho cả Mặt trận.<ref>[http://www.tandaiviet.org/tdv/index.php?option=com_content&view=article&id=68:th-gi-cac-ng-chi&catid=25:gii-thiu&Itemid=34 Tân Đại Việt "Thư gửi các đồng chí"]</ref><ref>[http://www.tinparis.net/chanhtri/TDV_lichsu.html Tân Đại Việt]</ref> Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận.
 
Đối với chương trình hành động của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại [[Việt Minh]] trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến|Chính phủ Liên hiệp]]:
Dòng 65:
# Thành lập một Trung tâm chính trị ở hải ngoại
# Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.
Tuy nhiên kế hoạch này cũng gây ra một sự bất đồng trong nội bộ Mặt trận, cũng như các đồng minh chống Việt Minh. [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Nam Cách mệnh Đồng minh-Hội]] (Việt Cách) tuy cũng có lập trường đối lập nhưng chấp nhận thỏa hiệp với Việt Minh; [[Nguyễn Hải Thần]], lãnh tụ Việt Cách tham gia [[Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] và giữ chức Phó Chủ tịch. Hai lãnh tụ của 2 đảng thành viên của Mặt trận là [[Nguyễn Tường Tam]] (Đại Việt Dân Chính Đảng) và [[Vũ Hồng Khanh]] (Việt Nam Quốc dân đảng - Việt Quốc) sau đó cũng đã tham gia [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] với cương vị Bộ trưởng Ngoại giao và Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến toàn quốc. Do việc này, trên thực tế, hoạt động của Mặt trận Quốc dân Đảng chỉ còn do Đại Việt Quốc dân Đảng duy trì.<ref>[http://www.tinparis.net/chanhtri/TDV_lichsu.html Lịch sử Tân Đại Việt]</ref>
=== Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ===
Ở [[Nam Bộ]], Đại Việt Quốc dân Đảng liên kết với những nhóm không Cộng sản khác như [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] do Phạm Hữu Đức lãnh đạo, lực lượng [[Cao Đài]] của [[Trình Minh Thế]], lực lượng [[Phật giáo Hòa Hảo]] của đức [[Huỳnh Phú Sổ]] và nhóm [[Bình Xuyên]] của [[Lê Văn Viễn]], để thành lập [[Mặt trận Quốc gia Liên hiệp]] vào tháng 4 năm [[1946]] với [[Huỳnh Phú Sổ]] làm Chủ tịch. Việt Minh cũng gửi đại diện tham gia trong Mặt trận nhưng đến tháng 5 thì rút lui.<ref>[http://www.hungviet.org/suthat070300.htm Vụ tướng Nguyễn Bình]</ref><ref>[http://hqvnch.net/default.asp?id=640&lstid=178 Bối cảnh lịch sử trong Nam 1945-46]</ref>
Dòng 102:
 
==Phân ly lần thứ hai==
===Tân Đại Việt và Đại Việt -Cách mạng===
Mãi sau khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|cuộc đảo chính]] năm 1963 với nền [[Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ Nhất Cộng hòa]] bị lật đổ và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại thì các đảng phái chính trị đối lập, trong đó có Đại Việt, mới hoạt động trở lại. Tuy nhiên, giữa các lãnh đạo của Đảng đã có sự phân hóa trầm trọng. Trung ương đảng sau năm 1964 không nhóm họp nữa vì những chia rẽ nội bộ. Nguyên do chính là khác biệt căn bản về đường lối đấu tranh. [[Nguyễn Ngọc Huy]] chủ trương bỏ phương thức cách mạng quân sự mà theo hẳn phương pháp ôn hòa qua [[lá phiếu]].<ref name="Voices">Taylor, K W, ed. ''Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)''. Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Program Publications, 2014. Tr 147-151</ref>