Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Phùng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 55:
Ông tên thật là [[Bùi Phùng|'''Bùi Văn Thận''']], quê quán: thôn Lời, xã [[Đặng Xá]], huyện [[Gia Lâm]], thành phố [[Hà Nội]].
 
- Ông được giác ngộ cách mạng, tham gia [[Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương|Mặt trận Dân chủ]] và hoạt động xây dựng các cơ sở đoàn thể Cứu Quốc của [[Việt Minh|Việt Minh]] ở địa phương từ năm [[1937]]. Hoạt động cách mạng thoát ly từ năm 1943. Tháng 8 năm 1944, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Bắc Ninh, rồi chuyển về [[Hoả Lò]] Hà Nội. Hết dụ dỗ đến tra tấn, ông Thận (tức [[Bùi Phùng]]) vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, chúng vẫn không khép được tội gì cho ông. Trước tình hình rối ren [[Chiến dịch Đông Dương (1945)|Pháp bị Nhật đảo chính ]]([[Tháng ba|Tháng 3 năm 1945]]), chúng đành phải trả tự do cho ông. Ra tù ông tiếp tục được Tỉnh bộ giao công viêc tham gia tổ chức chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở vùng nam [[sông Đuống]] và Gia Lâm, tỉnh [[Lịch sử hành chính Bắc Ninh| Bắc Ninh]].
 
- Ngày 22 tháng 8 năm [[1945]], chính quyền Cách mạng huyện [[Gia Lâm]] thành lập, ông được Tỉnh bộ Bắc Ninh giao làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời huyện [[Gia Lâm]].; Đầu năm [[1946]], ông làm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính huyện [[Quế Dương (huyện cũ)| Quế Dương]], tỉnh [[Bắc Ninh]]; Cuối năm 1947 là Tỉnh uỷ viên kiêm Bí thư huyện [[Võ Giàng]]; sau đó làm Trưởng Ban Đảng vụ Tỉnh ủy [[Bắc Ninh]].
 
- Đầu năm [[1949]], ông được điều động và bổ nhiệm làm Phó ban Đảng vụ Liên khu ủy Việt Bắc, sau đó được Trung ương cử đi học [[Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh|Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc]] khoá 2 tại [[Việt Bắc]]. Tháng 3 năm [[1950]], ông được điều động chuyển công tác vào quân đội.
Dòng 73:
* Hiệu phó, rồi phụ trách Hiệu trưởng [[Học viện Hậu cần (Việt Nam)| trường Sĩ quan Hậu cần]].
 
- Từ tháng 1 năm [[1961]] đến tháng 7 năm [[1964]], Tham mưu phó Tổng cục Hậu cần.
 
- Từ tháng 8 năm 1964 đến năm 1975, ông vào chiến trường miền Nam, lần lượt giữ các chức vụ: