Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa hiện sinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 136:
 
Sartre đã sang Đức năm 1930 để nghiên cứu về [[hiện tượng học]]([[:en:Phenomenology_(philosophy)|phenomenology]]) của [[Edmund Husserl]] và [[Martin Heidegger]],<ref>Rüdiger Safranski, ''Martin Heidgger – Between Good and Evil'' (Harvard University Press, 1998, p. 343</ref> và trong chuyên luận chính yếu của mình, ''Tồn tại và hư vô,'' ông có đưa ra phê bình với các tác phẩm của họ. Tư tưởng của Heidegger đã được biết đến trong giới triết học Pháp thông qua việc [[:en:Alexandre_Kojève|Alexandre Kojève]] sử dụng nó để diễn giải Hegel trong một loạt bài giảng của ông ở Paris những năm 1930.<ref>Entry on Kojève in Martin Cohen (editor), ''The Essentials of Philosophy and Ethics''(Hodder Arnold, 2006, p. 158); see also Alexandre Kojève, ''Introduction to the Reading of Hegel: Lectures on the Phenomenology of Spirit'' (Cornell University Press, 1980)</ref> Những bài giảng này đã mang đến ảnh hưởng lớn, thành phần khán giả không chỉ có Sartre và Merleau-Ponty, mà cả [[:en:Raymond_Queneau|Raymond Queneau]], [[:en:Georges_Bataille|Georges Bataille]], [[:en:Louis_Althusser|Louis Althusser]], [[André Breton]] và [[Jacques Lacan]].<ref>Entry on Kojève in Martin Cohen (editor), ''The Essentials of Philosophy and Ethics''(Hodder Arnold, 2006, p. 158)</ref> Một bản dịch bằng tiếng Pháp của cuốn ''[[Tồn tại và Thời gian]] ([[:en:Being_and_Time|Being and Time]])'' của Heidegger đã được xuất bản năm 1938 và các bài tiểu luận của ông bắt đầu xuất hiện trên các tạp chí triết học Pháp.
 
Heidegger đọc công trình của Sartre và ban đầu rất ấn tượng, nhận xét: "Ở đây lần đầu tiên tôi bắt gặp một nhà tư tưởng độc lập, người mà, từ nền tảng trở lên, đã trải nghiệm lĩnh vực ở bên ngoài những gì tôi nghĩ. Công trình của bạn cho thấy sự hiểu biết tức thời về triết lý của tôi theo cách thức mà tôi chưa bao giờ gặp phải trước đây."<ref>Martin Hediegger, letter, quoted in Rüdiger Safranski, ''Martin Heidgger – Between Good and Evil'' (Harvard University Press, 1998, p. 349)</ref> Tuy vậy, sau đó, khi trả lời câu hỏi được đặt ra bởi học trò người Pháp [[:en:Jean_Beaufret|Jean Beaufret]],<ref>Rüdiger Safranski, ''Martin Heidegger – Between Good and Evil'' (Harvard University Press, 1998, p. 356)</ref> Heidegger đã tránh xa vị trí của Sartre và chủ nghĩa hiện sinh nói chung trong ''[[Thư về Chủ nghĩa nhân văn]]([[:en:Letter_on_Humanism|Letter on Humanism]]).''<ref>William J. Richardson, ''Martin Heidegger: From Phenomenology to Thought''(Martjinus Nijhoff,1967, p. 351)</ref> Danh tiếng của Heidegger ở Pháp không ngừng nâng cao trong thập niên 1950, 1960. Vào những năm 1960, Sartre đã cố gắng dung hòa chủ nghĩa hiện sinh và [[chủ nghĩa Marx]] trong tác phẩm ''Phê phán lý tính biện chứng ([[:en:Critique_of_Dialectical_Reason|Critique of Dialectical Reason]])''. Một chủ đề chính xuyên suốt các tác phẩm của ông là về tự do và trách nhiệm.
 
Chủ nghĩa hiện sinh đã từng bước trở thành một trào lưu của [[triết học châu Âu lục địa]] trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Đến cuối [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], nó trở thành một phong trào được biết đến rộng rãi, đặc biệt qua danh tiếng và các tác phẩm của [[Jean-Paul Sartre]] cùng một số các tác giả khác ở Paris sau giải phóng. Các tác phẩm của họ chú trọng vào các chủ đề như "[[Angst|nỗi sợ]], [[sự buồn chán]], [[sự lạc lõng trong xã hội]] (''Social alienation''), sự phi lý, [[quyền tự do|tự do]], cam kết (''commitment''), và [[hư vô]]" như là nền tảng của sự hiện sinh con người.<ref name="sep">{{sep entry|Existentialism|Steven Crowell|2004-08-23}}</ref> [[Walter Kaufmann (nhà triết học)|Walter Kaufmann]] miêu tả chủ nghĩa hiện sinh là "Sự từ chối gia nhập bất cứ trường phái tư tưởng nào, sự bác bỏ rằng không có bất cứ niềm tin hay đặc biệt là hệ thống niềm tin nào là thỏa đáng, và một sự thất vọng rõ rệt đối với triết học truyền thống vì nó bề nổi, hàn lâm, và xa cách với cuộc sống."<ref name=":1">Kaufmann, Walter - ''Existentialism from Dostoevsky to Sartre'', 1975, 12.</ref>