Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trạm vũ trụ Hòa Bình”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 54:
|19 tháng 2 năm 1986
|Proton-K
|Là trung tâm điều khiển và nơi sống của các [[Nhà du hành vũ trụ|phi hành gia]]. Mô-đun được xây dưng dựa trên nên tảng của các trạm vũ trụ [[Salyut]] trước nó, nhưng có đặc điểm khác là có nút (node) 5 cổng nối phía trước của mô-đun, nơi các mô-đun sau này và các [[tàu vũ trụ Soyuz]] (Союз - Liên Hợp) và [[tàu vận tải Progress]] (Прогресс - Tiến Bộ) cập bến. Vì mọi hoạt động của trạm Mir không còn tập trung vào một mô-đun duy nhất nữa nên Mô-đun Lõi rất rộng rãi và cho phép mô-đun đặt 2 buồng ngủ và nhiều máy tính hơn các trạm Salyut trước. Mô-đun lõi còn có thêm một cổng nối ở phía sau, sau này mô-đun Kvant-1 kết nối ở cổng này.<ref name=":0">{{Chú thích web|url=https://spaceflight.nasa.gov/history/shuttle-mir/references/documents/mirheritage.pdf|title=Mir Hardware Heritage|tác giả=|họ=Portree|tên=David|ngày=1995-03|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
|[[Tập tin:Mir - core module.svg|nhỏ]]
|[[Tập tin:Mir Core Module - cropped and shaded.jpg|nhỏ]]
Dòng 61:
|31 tháng 3 năm 1987
|Proton-K
|Là mô-đun phục vụ nghiên cứu về [[Vật lý học|vật lý]] và [[thiên văn học]]. Các thiết bị khoa học gồm kính viễn vọng tia X, kính viễn vọng tia cực tím, 1 máy ảnh góc rộng, các thí nghiệm tia X năng lượng cao và hệ thống dò tia X/gamma. Mô-đun đồng thời mang theo thiết bị [[điện di]] Svetlana, sáu con quay hồi chuyển để điều chỉnh tư thế của trạm, hệ thống tạo khí [[Ôxy|ôxi]] Elektron và hệ thống loại bỏ khí [[Cacbon điôxít|CO<sub>2</sub>]] Vika. Mô-đun cũng có một cổng nối phía sau để các tàu vũ trụ Soyuz và Progress cập bến.<ref name=":0" />
|[[Tập tin:Kvant-1 - Mir module.png|nhỏ]]
|[[Tập tin:Kvant-1 (1995-02-06) cropped.jpg|nhỏ]]
Dòng 68:
|26 tháng 11 năm 1989
|Proton-K
|Được chia làm 3 khoang: khoang khóa khí (airlock) để các phi hành gia chuẩn bị đi bộ ngoài không gian, khoang hàng hóa và khoang thí nghiệm. Mô-đun mang theo một thiết bị hỗ trợ đi bộ ngoài không gian có tên là Ikar, hệ thống tái chế nước từ nước tiểu, một vòi tắm, hệ thống chứa nước Rodnik và sáu con quay hồi chuyển để sáp nhập vào hệ thống con quay có sẵn của mô-đun Kvant-1. Các dụng cụ khoa học gồm: một máy ảnh độ phân giải cao, phổ quang kế, cảm biến tia X, thí nghiệm dòng chảy chất lỏng Volna-2 và hệ thống Inkubator-2 dùng để ấp ủ và nuôi lớn chim cút.<ref name=":0" />
|[[Tập tin:Kvant-2 - Mir module.png|nhỏ]]
|[[Tập tin:Mir Kvant 1-Base Block-Kvant 2.jpg|nhỏ]]
Dòng 75:
|31 tháng 5 năm 1990
|Proton-K
|Là nơi nghiên cứu chế biến và xử lý vật liệu với các lò chế biến; quan sát thiên văn; và nghiên cứu công nghệ sinh học với thiết bị [[điện di]] Aniur. Mô-đun này đồng thời có thêm 2 cổng nối đặc biệt (cổng '''APAS-89''', hoàn toàn khác so với các cổng nối còn lại trên trạm) nơi dự kiến tàu con thoi '''Buran''' (Буран - Snowstorm - Bão tuyết) của Liên Xô cập bến, nhưng sau này chương trình Buran bị hủy bỏ và các [[Tàu con thoi]] của Mỹ cập bến thay nó trong chương trình hợp tác vũ trụ Nga-Mỹ: Tàu con thoi-Mir (Shuttle-Mir). Đây là mô-đun trạm vũ trụ cuối cùng do [[Liên Xô]] phóng trước khi [[Liên Xô tan rã|sụp đổ vào năm 1991]].<ref name=":0" />
|[[Tập tin:Kristall - Mir module.png|nhỏ]]
|[[Tập tin:Kristall module (1997).jpg|nhỏ]]
Dòng 104:
== Những kỉ lục ==
 
Suốt 15 năm bay vòng quanh Trái Đất với 23.000 thí nghiệm khoa học, đây là kỉ lục độc nhất của ngành [[hàng không vũ trụ]] [[thế kỷ 20|thế kỉ 20]]. Trạm đã đón nhận 104 lượt phi hành gia từ nhiều quốc gia khác nhau, đa phần là phi hành gia Nga và Mỹ và một số phi hành gia từ các nước khác như Pháp, Đức, Anh, Áo, Nhật,... đến làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đợt lưu trú dài nhất trên Mir, và cũng là kỉ lục chuyến bay vũ trụ dài nhất của một con người là của phi hành gia Nga '''Valeri Vladimirovich Polyakov''' (437 ngày).
 
Mir cũng không thể thoát một số tai nạn khi thực hiện sứ mệnh: hỏa hoạn (2/1997), mất điện và tụt áp suất do [[tàu vận tải Tiến bộ]]̣ va chạm vào trạm (6/1997), mất liên lạc với mặt đất suốt hai tháng (2000).<ref name=":1">{{Chú thích web|url=https://vnsc.org.vn/vi/tin-tuc-su-kien/ky-niem-30-nam-ngay-phong-tram-vu-tru-hoa-binh-mir-space-station-len-khong-gian/|title=Kỷ niệm 30 năm ngày phóng Trạm vũ trụ Hòa Bình – Mir Space Station lên không gian|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=https://vnsc.org.vn|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
{| class="wikitable"
|+
Dòng 117:
== Về Trái Đất ==
[[Tập tin:Mir reentry map.svg|nhỏ|Đường bay về khí quyển của Mir và tàu Progress M1-5]]
Đầu năm 2001, Nga quyết định đưa Mir về Trái Đất vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm và dọn đường cho [[Trạm vũ trụ Quốc tế|Trạm Vũ trụ Quốc tế]] (ISS)vì Nga không có đủ kinh phí vận hành cả hai trạm vũ trụ cùng một lúc.
 
Vào ngày 24 tháng 1 năm 2001, tàu vận tải Progress M1-5 đã phóng lên và cập bến Mir ba ngày sau. Khoảng 2 tháng sau, vào ngày 23 tháng 3 năm 2001, sau nhiều thao tác điều chỉnh độ cao, tàu Progress đã thực hiện ba lần đốt động cơ - với lần đốt động cơ cuối cùng là đốt tới khi hết nhiên liệu vào lúc 05:0727:36 GMT - từ từ đưa trạm về Trái Đất. Tín hiệu cuối cùng từ trạm Mir đã nhận lúc 5:3031 GMT cùng ngày. Mir cùng với tàu Progress sau đó cháy và tan vỡ trong khí quyển, những mảnh vỡ sót lại đã rơi xuống mặt Thái Bình Dương lúc 06:00 GMT<ref>{{Chú thích web|url=http://russianspaceweb.com/mir_2001.html|title=Mir space station deorbits in 2001|tác giả=|họ=Zak|tên=Anatoly|ngày=2001|website=RussianSpaceWeb.com|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>.
 
Trước khi về Trái Đất, người ta cũng khá lo ngại về trường hợp Mir có thể gây ra những thảm họa khi nó rơi xuống các khu dân cư hay [[thành phố]] lớn. Nhưng điều này không xảy ra, Mir đã được cố ý phá vỡ khi gia nhập khí quyển và các phần vỡ đã chọn một diện tích 1500&nbsp;km² trên vùng biển Nam Thái Bình Dương để làm phần mộ của mình.<ref name=":1" />
 
==Chú thích==