Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Hữu Hạnh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 4:
|hình=
|chú thích hình=
|ngày sinh=
|ngày mất=
|nơi sinh= [[Châu Thành, Tiền Giang|Châu Thành]], [[Mỹ Tho (tỉnh)|Mỹ Tho]], [[Việt Nam]]
|nơi mất= [[Tân Bình]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Tp HCM]], [[Việt Nam]]
Dòng 21:
Sau năm 1975, ông sống với gia đình ở [[Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh|quận Tân Phú]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]] đến năm 2015. Sau đó ông trở về quê Mỹ Tho.
==Thân thế và bước đầu binh nghiệp==
Ông sinh ngày
===Quân đội Liên hiệp Pháp===
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1952, [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]] thành lập Bộ Tổng Tham mưu, chính thức chuyển sang cơ cấu mới này, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn-Chợ Lớn.
Đầu năm 1954, ông học khóa liên đoàn trưởng Liên đoàn lưu động (GM) tại Hà Nội.
===Quân
Đầu năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] tại nhiệm
Khi Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] lên làm Tổng thống đổi tên Quân đội Quốc gia thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] và mở chiến dịch tiêu diệt Lực lượng Vũ trang của các Giáo phái. Tháng 9 cùng năm ông được giữ chức vụ Tham mưu trưởng [[Chiến dịch Hoàng Diệu (1955)|Chiến dịch Hoàng Diệu]] đánh quân Giáo phái [[Phật giáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]]. Đến Chiến dịch [[Thoại Ngọc Hầu]] đánh quân Giáo phái [[Cao Đài]], ông được thăng cấp [[Trung tá]], dưới quyền Đại tá Dương Văn Minh.
Đầu năm 1957, ông được chỉ định làm
Tháng 8 năm 1958, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Fort Leavenworth, Tiểu bang [[Kansas]], Hoa Kỳ với thời gian 42 tuần. Cuối tháng 7 năm 1959 mãn khóa học về nước, trở về làm trong Bộ tham mưu của ông Dương Văn Minh tại Bộ tư lệnh hành quân (Bộ tư lệnh lộ quân dã chiến).
Đầu năm 1962, ông
==Quân lực Việt nam Cộng hòa==
Tháng 7 năm 1964, ông được cử làm chỉ huy phó trường [[Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt]]. Đến tháng 7 năm 1967, chuyển sang đơn vị bộ binh làm Tư lệnh phó [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]] tại Bạc Liêu. Năm 1968, ông được chuyển công vụ giữ chức Tư lệnh Biệt khu 44 (gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường).
Năm 1969, một lần nữa, ông được điều động trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV giữ chức vụ
Trung tuần tháng 5 năm 1972, ông thuyên chuyển ra Bộ tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II]], giữ chức vụ Phó Tư lệnh do Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Toàn]] làm Tư lệnh. Giữa năm 1973, thuyên chuyển ra [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I]] giữ chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn.▼
Ngày 15 tháng 5 năm 1974, ông nhận được quyết định về hưu do Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là ông đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định ''(trên 20 năm)''. Ý đồ sâu xa của Tổng thống Thiệu là loại bỏ bớt những người ngả theo tướng [[Dương Văn Minh]].<ref name=":0" />▼
Ngày
▲Năm 1969, một lần nữa, ông được điều động trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV giữ chức vụ Phó Tư lệnh dưới quyền Thiếu tướng [[Nguyễn Viết Thanh]]. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
Sau tháng tư năm 1975, ông sống với gia đình ở quân Tân Phú, Tp HCM đến năm 2015 thì trở về sinh sống tại quê nhà ở Mỹ Tho.
▲Trung tuần tháng 5 năm 1972, ông thuyên chuyển ra Bộ tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II]], giữ chức vụ Phó Tư lệnh do Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Toàn]] làm Tư lệnh. Giữa năm 1973, thuyên chuyển ra [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I]] giữ chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn.
▲Ngày 15 tháng 5 năm 1974, ông nhận được quyết định về hưu do Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là ông đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định ''(trên 20 năm)''. Ý đồ sâu xa của Tổng thống Thiệu là loại bỏ bớt những người ngả theo tướng [[Dương Văn Minh]].<ref name=":0" />
Ngày 29 tháng 9 năm 2019, ông từ trần vì tuổi cao sức yếu tại bệnh viện Thống Nhất (Tân Bình, Tp HCM). Ngày 2 tháng 10 (2019), ông được an táng tại xã Tân Phú Trung, Củ Chi, Tp HCM.
▲Ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông trở vào quân đội trong chính phủ Dương Văn Minh với chức vụ phụ tá tổng tham mưu trưởng.<ref name=":1" />
===Tình báo viên của quân Giải phóng miền Nam===
Tháng 10 năm 1963, khi đang là Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn IV, dưới quyền tướng Huỳnh Văn Cao, cha ông là Nguyễn Hữu Điệt qua đời. Do ý nguyện của cha muốn được
Nhiệm vụ tiếp cận, vận động, bồi dưỡng ông được giao cho ông Nguyễn Tấn Thành (Tám vô tư), người bà con bên bà nội (bác, lớn hơn ông khoảng 10 tuổi). Trước đó, có 2 lần ông Thành bị phía quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt giữ, nhưng đều được ông can thiệp và trả tự do.<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://cand.com.vn/thoi-su/Nguyen-Huu-Hanh-Nguoi-pho-bien-lenh-buong-sung-cua-Tong-thong-duong-Van-Minh-390703/|tiêu đề=Nguyễn Hữu Hạnh – Người phổ biến lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh}}</ref>
Hàng 74 ⟶ 71:
Khi [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng]] tiến vào Nam, Binh vận Trung ương Cục phái bác Tám Thành gặp ông bàn về việc ông [[Dương Văn Minh]] lên nắm chính quyền. Chừng đó ông phải tìm cách nắm quân đội, tìm mọi cách thuyết phục ông Minh đầu hàng. Trường hợp không được sẽ phối hợp với [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng]] chiếm lấy phần lãnh thổ còn lại. Ông đưa ý kiến: "''muốn thúc đẩy người ta giao nhanh cho ông Minh, quân cách mạng phải cắt đứt các đường lộ dẫn vào Sài Gòn cỡ cấp sư đoàn''". <ref name=":1" />
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, sau khi Đại tướng Dương Văn Minh lên nắm chức vụ Tổng thống, ông được phân công giữ chức Phụ tá cho tân Tổng
Khi được làm
8h sáng 30 ngày 4, các ông [[Dương Văn Minh]], [[Nguyễn Văn Huyền]] và [[Vũ Văn Mẫu]] quyết định đơn phương tuyên bố bàn giao chính quyền lại cho [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]]. Ông Mẫu ngồi soạn lời tuyên bố, mất khoảng một tiếng đồng hồ. Đến 9h, ông Minh đọc vào máy ghi âm. Trong lúc [[Dương Văn Minh]] thâu băng lời tuyên bố, [[Nguyễn Hữu Hạnh]] gọi điện cho tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] và yêu cầu tướng Nam cố gắng thi hành lệnh tổng thống sẽ phát trên [[Đài Vô tuyến Việt Nam]]. [[Nguyễn Hữu Hạnh]] cũng đến Đài phát thanh để ra nhật lệnh cho quân đội và các lực lượng vũ trang buông súng thi hành lệnh của tổng thống. Tuyên bố của ông [[Dương Văn Minh]], nhật lệnh của [[Nguyễn Hữu Hạnh]] được truyền đi trên [[Đài Vô tuyến Việt Nam]] lúc 9h30.<ref>{{Chú thích web|url=https://tuoitre.vn/but-ky-nguyen-huu-hanh-ky-cuoi-ngay-lich-su-20191001113028232.htm|title=Bút ký Nguyễn Hữu Hạnh - Kỳ cuối: Ngày lịch sử|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>
{{cquote|Tôi,
Các cấp chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy sẵn sàng liên lạc với các cấp chỉ huy quân đội của
Ông cũng là một trong 2 vị tướng bên cạnh Tổng thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa (vị tướng thứ 2 là Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]], đối thủ cũ của tướng Dương Văn Minh).
Hàng 98 ⟶ 95:
Lúc ông làm tư lệnh phó sư đoàn 21, trong những cuộc hành quân, tôi cho lệnh trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên mới được bắn lại. Ông nói với thiếu tướng [[Nguyễn Văn Minh (trung tướng VNCH)|Nguyễn Văn Minh]], tư lệnh sư đoàn: "''Sư đoàn đã sử dụng hỏa lực bừa bãi. Thấy cảnh chết chóc nhiều tôi không chịu nổi, có lẽ tôi sẽ không làm việc lâu với anh''".<ref name=":1" />
==
Ông nội của ông là Nguyễn Quang Phát, bà nội là Phạm Thị Trà. Cha là Nguyễn Hữu Điệt. Mẹ là Nguyễn Thị Có (Tư Hiền).<ref name=":1" />
|