Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Hữu Hạnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
|hình=
|chú thích hình=
|ngày sinh= {{ngày[[10 sinh|1924|8|26}}tháng 7]] năm [[1926]]
|ngày mất= {{ngày[[29 mấttháng 9]] tuổi|năm [[2019|9|29|1924|8|26}}]]
|nơi sinh= [[Châu Thành, Tiền Giang|Châu Thành]], [[Mỹ Tho (tỉnh)|Mỹ Tho]], [[Việt Nam]]
|nơi mất= [[Tân Bình]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Tp HCM]], [[Việt Nam]]
Dòng 21:
 
Sau năm 1975, ông sống với gia đình ở [[Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh|quận Tân Phú]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]] đến năm 2015. Sau đó ông trở về quê Mỹ Tho.
 
Lúc 6h40 ngày [[29 tháng 9]] năm [[2019]], ông từ trần vì tuổi cao sức yếu tại [[Bệnh viện Thống Nhất]], hưởng thọ 95 tuổi. Ngày 2 tháng 10 năm 2019, ông được an táng tại xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, [[Thành phố Hồ Chí Minh]].<ref name=":2">{{Chú thích web|url=http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Thoi-khac-vang-cua-ong-Nguyen-Huu-Hanh-564020/|title=Thời khắc vàng của ông Nguyễn Hữu Hạnh|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>
 
==Thân thế và bước đầu binh nghiệp==
Ông sinh ngày 2610 tháng 87 năm 19241926 (theothực tríchra lụcngày tòasinh thìcủa sinhông ngày 1026 tháng 78 năm 19261924) tại xã Phú Phong, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (bây giờ là tỉnh [[Tiền Giang]]).<ref name=":1">{{Chú thích web|url=https://tuoitre.vn/but-ky-nguyen-huu-hanh-ky-1-toi-la-ai-20190930232158735.htm|title=Bút ký Nguyễn Hữu Hạnh - Kỳ 1: Tôi là ai?|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref> Năm 1945, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Mỹ Tho với văn bằng Tú tài bán phần (Par I).
 
===Quân đội Liên hiệp Pháp===
ĐầuTháng 4 năm 19491946, thiông hànhgia lệnhnhập độngvào viênQuân đội thuộc địa Pháp, ôngđầu nhậpnăm ngũ1949, vàosau khi chuyển sang cơ chế Quân đội Liên hiệp Pháp, ông được cử đi học sĩ quan mang số quân: 46/103072., Theotheo học tại trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Mãn khóa cùng năm, tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]].<ref>Cùng tốt nghiệp khóa sĩ quan ở Trường Võ bị Cap Saint Jacques với tướng Nguyễn Hữu Hạnh, sau này lên tướng còn có Đại tướng [[Cao Văn Viên]] và Trung tướng [[Nguyễn Chánh Thi]].</ref> Ra trường ông được điều đi phục vụ tại một đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng dưới quyền Thiếu úy Đại đội trưởng [[Dương Văn Minh]], khởi đầu của mối quan hệ thân tình của ông với tướng Dương Văn Minh về sau này. Giữa năm 1950, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] tại nhiệm. Cuối năm 1951, ông được thăng cấp [[Trung úy]] làm Đại đội trưởng Bộ binh.
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1952, [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]] thành lập Bộ Tổng Tham mưu, chính thức chuyển sang cơ cấu mới này, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn-Chợ Lớn.
 
Đầu năm 1954, ông học khóa liên đoàn trưởng Liên đoàn lưu động (GM) tại Hà Nội. CuốiSau nămđó 1954, với cấp bậc thiếu tálàm trungTrung đoàn phó trungTrung đoàn 11, ôngrồi nhận tiểuTiểu khu trưởng Long Xuyên do Pháp giao lại.<ref name=":1" />
 
===Quân lựcđội Việt Nam Cộng hòa===
Đầu năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] tại nhiệm. Ông được gọichỉ vềđịnh làm thamTham mưu trưởng cho ôngĐại tá [[Dương Văn Minh]] để nhận lãnh phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn (gồm Rừng Sác, tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, Tây Ninh và thành phố Sài Gòn), phần đất cuối cùng mà Pháp giao lại.<ref name=":1" />
 
Khi Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] lên làm Tổng thống đổi tên Quân đội Quốc gia thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] và mở chiến dịch tiêu diệt Lực lượng Vũ trang của các Giáo phái. Tháng 9 cùng năm ông được giữ chức vụ Tham mưu trưởng [[Chiến dịch Hoàng Diệu (1955)|Chiến dịch Hoàng Diệu]] đánh quân Giáo phái [[Phật giáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]]. Đến Chiến dịch [[Thoại Ngọc Hầu]] đánh quân Giáo phái [[Cao Đài]], ông được thăng cấp [[Trung tá]], dưới quyền Đại tá Dương Văn Minh.
 
Đầu năm 1957, ông được chỉ định làm thamTham mưu trưởng Liên Quân khu Thủ đô (sau đổi thành [[Biệt khu Thủ đô]]) và khu 5 - Nam bộ<ref name=":1" />.
 
Tháng 8 năm 1958, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Fort Leavenworth, Tiểu bang [[Kansas]], Hoa Kỳ với thời gian 42 tuần. Cuối tháng 7 năm 1959 mãn khóa học về nước, trở về làm trong Bộ tham mưu của ông Dương Văn Minh tại Bộ tư lệnh hành quân (Bộ tư lệnh lộ quân dã chiến).<ref name=":1" />
 
Đầu năm 1962, ông Minhđược gửi tôicử đi học khóa tình báo, chiến thuật, chiến lược và phản gián tại Fort Hollabird - Maryland (Mỹ). Tôiđể khôngmở phảirộng chuyênkiến viênthức tìnhvề báotham nhưngmưu. họcĐầu đểnăm mở1963, rộngông kiếnđược thứcthăng vềcấp tham[[Đại tá]] và được cử làm Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật (từ Long An đến Cà Mau).
 
==Quân lực Việt nam Cộng hòa==
Năm 1963, làm tham mưu trưởng (cấp đại tá) Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật (từ Long An đến Cà Mau).
Tháng 7 năm 1964, ông được cử làm chỉ huy phó trường [[Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt]]. Đến tháng 7 năm 1967, chuyển sang đơn vị bộ binh làm Tư lệnh phó [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]] tại Bạc Liêu. Năm 1968, ông được chuyển công vụ giữ chức Tư lệnh Biệt khu 44 (gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường).
 
Năm 1969, một lần nữa, ông được điều động trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV giữ chức vụ Phó Tư lệnh phó dưới quyền Thiếu tướng [[Nguyễn Viết Thanh]]. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
Tháng 7 năm 1964, làm chỉ huy phó trường [[Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt]].
 
Trung tuần tháng 5 năm 1972, ông thuyên chuyển ra Bộ tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II]], giữ chức vụ Phó Tư lệnh do Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Toàn]] làm Tư lệnh. Giữa năm 1973, thuyên chuyển ra [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I]] giữ chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn.
Tháng 7 năm 1967, làm tư lệnh phó [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] tại Bạc Liêu.
 
Ngày 15 tháng 5 năm 1974, ông nhận được quyết định về hưu do Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là ông đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định ''(trên 20 năm)''. Ý đồ sâu xa của Tổng thống Thiệu là loại bỏ bớt những người ngả theo tướng [[Dương Văn Minh]].<ref name=":0" />
Năm 1968, làm tư lệnh biệt khu 44 (tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường).
 
Ngày 2928 tháng 4 năm 1975, ông trởđược vàogọi quântái độingũ trong chính phủ Dương Văn Minh với chức vụ phụ tá tổngTổng thamTham mưu trưởng.<ref name=":1"Bộ />Tổng Tham mưu.
Năm 1969, một lần nữa, ông được điều động trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV giữ chức vụ Phó Tư lệnh dưới quyền Thiếu tướng [[Nguyễn Viết Thanh]]. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
 
Sau tháng tư năm 1975, ông sống với gia đình ở quân Tân Phú, Tp HCM đến năm 2015 thì trở về sinh sống tại quê nhà ở Mỹ Tho.
Trung tuần tháng 5 năm 1972, ông thuyên chuyển ra Bộ tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II]], giữ chức vụ Phó Tư lệnh do Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Toàn]] làm Tư lệnh. Giữa năm 1973, thuyên chuyển ra [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I]] giữ chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn.
 
Ngày 15 tháng 5 năm 1974, ông nhận được quyết định về hưu do Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là ông đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định ''(trên 20 năm)''. Ý đồ sâu xa của Tổng thống Thiệu là loại bỏ bớt những người ngả theo tướng [[Dương Văn Minh]].<ref name=":0" />
 
Ngày 29 tháng 9 năm 2019, ông từ trần vì tuổi cao sức yếu tại bệnh viện Thống Nhất (Tân Bình, Tp HCM). Ngày 2 tháng 10 (2019), ông được an táng tại xã Tân Phú Trung, Củ Chi, Tp HCM.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông trở vào quân đội trong chính phủ Dương Văn Minh với chức vụ phụ tá tổng tham mưu trưởng.<ref name=":1" />
 
===Tình báo viên của quân Giải phóng miền Nam===
Tháng 10 năm 1963, khi đang là Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn IV, dưới quyền tướng Huỳnh Văn Cao, cha ông là Nguyễn Hữu Điệt qua đời. Do ý nguyện của cha muốn được [[chôn cất]] tại quê nhà (Mỹ Tho), nơi đang thuộc quyền kiểm soát của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]] tỉnh Mỹ Tho, ông đã thỏa thuận ngưng bắn 3 ngày để làm lễ tang và [[chôn cất]] cho cha. Điều này khiến cho Ban binh vận của [[Trung ương Cục miền Nam]] chú ý và nảy ý đồ vận động ông làm cơ sở.
 
Nhiệm vụ tiếp cận, vận động, bồi dưỡng ông được giao cho ông Nguyễn Tấn Thành (Tám vô tư), người bà con bên bà nội (bác, lớn hơn ông khoảng 10 tuổi). Trước đó, có 2 lần ông Thành bị phía quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt giữ, nhưng đều được ông can thiệp và trả tự do.<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://cand.com.vn/thoi-su/Nguyen-Huu-Hanh-Nguoi-pho-bien-lenh-buong-sung-cua-Tong-thong-duong-Van-Minh-390703/|tiêu đề=Nguyễn Hữu Hạnh – Người phổ biến lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh}}</ref>
Hàng 74 ⟶ 71:
Khi [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng]] tiến vào Nam, Binh vận Trung ương Cục phái bác Tám Thành gặp ông bàn về việc ông [[Dương Văn Minh]] lên nắm chính quyền. Chừng đó ông phải tìm cách nắm quân đội, tìm mọi cách thuyết phục ông Minh đầu hàng. Trường hợp không được sẽ phối hợp với [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng]] chiếm lấy phần lãnh thổ còn lại. Ông đưa ý kiến: "''muốn thúc đẩy người ta giao nhanh cho ông Minh, quân cách mạng phải cắt đứt các đường lộ dẫn vào Sài Gòn cỡ cấp sư đoàn''". <ref name=":1" />
 
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, sau khi Đại tướng Dương Văn Minh lên nắm chức vụ Tổng thống, ông được phân công giữ chức Phụ tá cho tân Tổng thamTham mưu trưởng - (Trung tướng [[Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc|Vĩnh Lộc]]). Tuy nhiên, không lâu thì tướng Vĩnh Lộc đào nhiệm. Chỉ thị của ông Dương Văn Minh khi ông mới nhậm chức là không được di chuyển quân, chờ thương thuyết. Tình hình rất hỗn loạn, muốn giữ Sài Gòn được nguyên vẹn nên từ chiều 29 tháng 4 ông đã ra lệnh: "''Không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ tổngTổng tham mưu''".<ref>{{Chú thích web|url=https://tuoitre.vn/but-ky-nguyen-huu-hanh-ky-2-phai-giu-sai-gon-20191001112442769.htm|title=Bút ký Nguyễn Hữu Hạnh - Kỳ 2: Phải giữ Sài Gòn|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>Ngoài ra, ông cho [[Quân cảnh Việt Nam Cộng hòa|Quân cảnh]] tung hết các lực lượng để giữ an ninh trật tự cho thành phố, thu hồi và đưa về quân vụ súng ống của các quân nhân đi lẻ tẻ ngoài phố
 
Khi được làm phụPhụtổngTổng thamTham mưu trưởng, ông đã tạo động cơ để thúc đẩy ông Dương Văn Minh đơn phương tuyên bố bàn giao quyền lại cho [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]], từ đó ông mới chỉ thị quân đội buông súng được. <ref name=":1" />
 
8h sáng 30 ngày 4, các ông [[Dương Văn Minh]], [[Nguyễn Văn Huyền]] và [[Vũ Văn Mẫu]] quyết định đơn phương tuyên bố bàn giao chính quyền lại cho [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]]. Ông Mẫu ngồi soạn lời tuyên bố, mất khoảng một tiếng đồng hồ. Đến 9h, ông Minh đọc vào máy ghi âm. Trong lúc [[Dương Văn Minh]] thâu băng lời tuyên bố, [[Nguyễn Hữu Hạnh]] gọi điện cho tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] và yêu cầu tướng Nam cố gắng thi hành lệnh tổng thống sẽ phát trên [[Đài Vô tuyến Việt Nam]]. [[Nguyễn Hữu Hạnh]] cũng đến Đài phát thanh để ra nhật lệnh cho quân đội và các lực lượng vũ trang buông súng thi hành lệnh của tổng thống. Tuyên bố của ông [[Dương Văn Minh]], nhật lệnh của [[Nguyễn Hữu Hạnh]] được truyền đi trên [[Đài Vô tuyến Việt Nam]] lúc 9h30.<ref>{{Chú thích web|url=https://tuoitre.vn/but-ky-nguyen-huu-hanh-ky-cuoi-ngay-lich-su-20191001113028232.htm|title=Bút ký Nguyễn Hữu Hạnh - Kỳ cuối: Ngày lịch sử|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>
 
{{cquote|Tôi, chuẩnChuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổngTổng thamTham mưu trưởng, thay mặt trungTrung tướng Vĩnh Lộc (tổngTổng thamTham mưu trưởng, vắng mặt), yêu cầu tất cả quí vị tướng lãnh và quân nhân các cấp hãy triệt để thi hành lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về ngưng bắn.
 
Các cấp chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy sẵn sàng liên lạc với các cấp chỉ huy quân đội của ChánhChính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để thực hiện ngưng bắn một cách không đổ máu.|||Nhật lệnh của tướng Nguyễn Hữu Hạnh}}
 
Ông cũng là một trong 2 vị tướng bên cạnh Tổng thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa (vị tướng thứ 2 là Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]], đối thủ cũ của tướng Dương Văn Minh).
Hàng 98 ⟶ 95:
 
Lúc ông làm tư lệnh phó sư đoàn 21, trong những cuộc hành quân, tôi cho lệnh trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên mới được bắn lại. Ông nói với thiếu tướng [[Nguyễn Văn Minh (trung tướng VNCH)|Nguyễn Văn Minh]], tư lệnh sư đoàn: "''Sư đoàn đã sử dụng hỏa lực bừa bãi. Thấy cảnh chết chóc nhiều tôi không chịu nổi, có lẽ tôi sẽ không làm việc lâu với anh''".<ref name=":1" />
 
== Gia đình ==
Ông nội của ông là Nguyễn Quang Phát, bà nội là Phạm Thị Trà. Cha là Nguyễn Hữu Điệt. Mẹ là Nguyễn Thị Có (Tư Hiền).<ref name=":1" />