Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vô ngã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tieuder (thảo luận | đóng góp)
Tieuder (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Wiki hóa}}{{Cần biên tập}}{{Buddhism}}
'''Vô ngã''' (無我, sa. ''anātman'', pi. ''anattā''), là một trong [[Ba pháp ấn]] (sa. ''trilakṣaṇa'') (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo [[Phật giáo]].
 
Chân lý Vô ngã là [[pháp ấn]] chỉ có trong [[Phật giáo]], cho rằng, không có một [[Ngã (Phật giáo)|Ngã]] (sa. ''ātman'', pi. ''attā''), một cái gì trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn tại nằm trong sự vật mà không phụ thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tùy thuộc điều kiện) khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" là không có mà chỉ là một tập hợp của [[Ngũ uẩn]] (sa. ''pañcaskandha''), luôn luôn thay đổi, sinh diệt. Chú ý thêm rằng: Vô Ngã là một trong 3 pháp ấn. Hai pháp ấn còn lại là [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]] và [[Vô thường|Vô Thường]]. Cái gì có sinh thì phải có diệt là vô thường; cái gì vô thường thì là khổ; cái gì khổ mà nó biến đổi theo duyên sinh (không tùy thuộc vào ý muốn của nó) thì là vô ngã. Cho dù, Đạo Phật có ra đời hay không, cho dù loài người có tồn tại hay không thì 3 pháp ấn này vẫn hiện diện trong vũ trụ như một chân lý: mọi pháp hữu vi (pháp có sinh thì có diệt) thì là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Pháp Vô Vi (pháp không có sự tạo tác nên không có sự diệt) cũng là vô ngã. Pháp Vô Vi không có tính chất Vô thường và Khổ như pháp hữu vi. Để dễ hiểu, cần nhớ câu này: cái gì có sinh thì phải có diệt là vô thường; cái gì vô thường thì là khổ; cái gì khổ mà nó biến đổi theo duyên sinh (không tùy thuộc vào ý muốn của nó) thì là vô ngã.
 
==Kinh văn==
Quan điểm này đặc biệt được nhấn mạnh trong "Kinh nói về những đặc tướng của Vô ngã" (pi. ''anattālakkhaṇasutta'', Saṃyutta Nikāya 22.59, bản dịch của [[Thích Minh Châu]]) viết như sau:
<div class="toccolours">
:1) Một thời [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Thế Tôn]] ở Bàrànasi ([[Ba-la-nại]]), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), [[vườn Lộc Uyển]].
Dòng 58:
</div>
 
==Phân tích Ngã và Vô ngã==
Đạo Phật khẳng định tất cả các pháp hữu vi và vô vi đều là Vô Ngã. Vô ngã là một kết luận logic từ tính chất [[vô thường]] của vạn vật. Không thể có một "cá nhân" trường tồn bởi vì ngũ uẩn không có một cốt tủy bền vững và nó là do duyên sinh. Uẩn là nhóm, đám, tập hợp. Ngũ uẩn gồm Sắc Uẩn là nhóm sắc thuộc phần thân thể (các cơ quan bộ phận). Thọ Uẩn là nhóm các cảm giác khổ, lạc, bất khổ bất lạc. Hành uẩn là nhóm các tâm hành có sự chủ ý, tạo nghiệp, gồm 50 tâm hành (không kể Thọ, Tưởng). Tưởng Uẩn là nhóm các tư tưởng, hồi tưởng...Thức Uẩn là nhóm các tâm (tiến trình tâm và các tâm sở như Thọ Tưởng Hành) đồng sinh, đồng diệt cùng với Tâm. Thức và Tâm là đồng nghĩa trong mọi ngữ cảnh của Kinh Nikaya. Như Lai nói "'''''Do vậy, này các Tỉ-khâu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."''''' Tất cả Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn là vô ngã trong đủ cả 11 khía cạnh: quá khứ, hiện tại, vị lai, thuộc nội (cơ thể), thuộc ngoại (ngoài cơ thể), thô (xấu, không vi diệu), tế (đẹp, vi diệu), hạ liệt, thù thắng (cao thượng), xa, gần.
Cơ bản thì vô ngã là một kết luận lô-gíc từ tính chất [[vô thường]] của vạn vật. Không thể có một "cá nhân" trường tồn bởi vì ngũ uẩn không có một cốt tủy bền vững và nó là do duyên sinh.
Uẩn là nhóm, đám, tập hợp. Ngũ là 5. Sắc Uẩn là nhóm sắc thuộc phần thân thể (các cơ quan bộ phận). Thọ Uẩn là nhóm các cảm giác khổ, lạc, bất khổ bất lạc. Hành uẩn là nhóm các tâm hành có sự chủ ý, tạo nghiệp, gồm 50 tâm hành (không kể Thọ, Tưởng). Tưởng Uẩn là nhóm các tư tưởng, hồi tưởng...Thức Uẩn là nhóm các tâm (tiến trình tâm và các tâm sở như Thọ Tưởng Hành) đồng sinh, đồng diệt cùng với Tâm. Thức và Tâm là đồng nghĩa trong mọi ngữ cảnh của Kinh Nikaya.
'''''Do vậy, này các Tỉ-khâu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."'''''
Tất cả Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn là vô ngã trong đủ cả 11 khía cạnh: 1/quá khứ 2/ hiện tại 3/vị lai 4/thuộc nội (cơ thể) 5/ thuộc ngoại (ngoài cơ thể) 6/thô (xấu, không vi diệu) 7/tế (đẹp, vi diệu) 8/hạ liệt 9/thù thắng (cao thượng) 10/xa 11/gần.
Hành giả cần phải thực hiện thiền quán tất cả 11 khía cạnh này để chứng đắc Vô Ngã (trình độ A la hán) toàn diện. Vì sao nói toàn diện? Bởi vì trình độ Thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm vẫn chưa thể thấy hết 11 khía cạnh này. Chỉ có bậc A la hán, bậc lậu tận, bậc Vô học mới có thể thấy rõ, biết rõ hết 11 khía cạnh này bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ - Thân Thọ Tâm Pháp. Các hành giả được khuyên là nên tìm hiểu Kinh Tứ Niệm Xứ và thực hành từng bước để có thể có khả năng quán sát tất cả các khía cạnh này. Ví dụ như Thánh Tu Đà Hoàn thấy Sắc bên trong (thân thể) là Vô Ngã, vị ấy hoàn toàn thấy thân là vô ngã, tức là lìa tham ái ở Thân nhưng các vị ấy vẫn có thể dính mắc vào Sắc bên ngoài cơ thể (người khác hoặc vật đáng yêu đáng thích).
Chúng ta cần lưu ý cách lập luận rất thuyết phục, không thể chối cãi của Đức Phật:
 
Hành giả cần phải thực hiện thiền quán tất cả 11 khía cạnh này để chứng đắc Vô Ngã (trình độ A la hán) toàn diện. Vì sao nói toàn diện? Bởi vì trình độ Thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm vẫn chưa thể thấy hết 11 khía cạnh này. Chỉ có bậc A la hán, bậc lậu tận, bậc không cần học thêm nữa mới có thể thấy rõ, biết rõ hết 11 khía cạnh này bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ - Thân Thọ Tâm Pháp. Các hành giả được khuyên là nên tìm hiểu Kinh Tứ Niệm Xứ và thực hành từng bước để có thể có khả năng quán sát tất cả các khía cạnh này. Ví dụ như Thánh Tu Đà Hoàn thấy Sắc bên trong (thân thể) là Vô Ngã, vị ấy hoàn toàn thấy thân là vô ngã, tức là lìa tham ái ở Thân nhưng các vị ấy vẫn có thể dính mắc vào Sắc bên ngoài cơ thể (người khác hoặc vật đáng yêu đáng thích).Phật nói:
'''Tổng quát:''' ''Vì Sắc là vô thường (có sinh tất phải có diệt) cho nên Sắc mang tính Khổ (bất toại nguyện). Vì mang tính bất toại nguyện (khổ) nên không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Do vậy, Sắc là Vô Ngã. Không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta là vì không thể ngăn chặn được sự sinh diệt của Sắc, Sắc sinh ra là do duyên sinh (theo điều kiện đủ) và Sắc hoại diệt cũng là do duyên sinh. vì thế Sắc là Vô Ngã.''
 
'''Tổng quát:''' ''Vì Sắc là vô thường (có sinh tất phải có diệt) cho nên Sắc mang tính Khổ (bất toại nguyện). Vì mang tính bất toại nguyện (khổ) nên không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Do vậy, Sắc là Vô Ngã. Không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta là vì không thể ngăn chặn được sự sinh diệt của Sắc, Sắc sinh ra là do duyên sinh (theo điều kiện đủ) và Sắc hoại diệt cũng là do duyên sinh. vì thế Sắc là Vô Ngã.''
Với lập luận tương tự như thế: cho Thọ Uẩn, Tưởng uẩn, hành uẩn, Thức uẩn.
 
Ví dụ: quanQuan sát (thiền quán) hơi thở vào, hơi thở ra (hơi thở là thành phần của Sắc Uẩn) thì thấy hơi thở vào và ra là duyên sinh. Dù chúng ta có muốn hay không muốn thì hơi thở vẫn vào ra. Không ai tự nín thở mà chết được, chỉ khi mạng căn dứt thì mới mới tắt thở (chết). Ví dụ 2: quanQuan sát (thiền quán) những cử động thân thể, chúng ta thấy mỗi mỗi sự vận động chân, tay đều theo trình tự: 1. có sự tác ý (hành) 2. Khiến cho sự di chuyển của Sắc. Như vậy: do duyên của tác ý (hành) nên có sự di chuyển cơ thể (sắc). Mặc dù chúng ta nói chúng ta "vô tình" làm cái gì đó nhưng tuyệt đối không đúng như vậy, phải có sự tác ý (theo thói quen chẳng hạn) thì mới sinh ra sự cử động cơ thể. Do vì vô minh nên không biết được như vậy. Sự tác ý, sự chuyển động là do tham ái ngủ ngầm sai khiến. Ở điểm này, chúng ta cần phải liên hệ đến 12 Nhân Duyên (pháp duyên khởi) để hiểu hơn.
 
Mục đích quán sát (thiền quán) cả 11 khía cạnh này là cắt đứt sự dính mắc vào Ngũ Uẩn. Đó là sự chặt đứt tham ái (1 chi trong 12 chi thuộc 12 Nhân Duyên). Quá trình quán sát này làm phát sanh Tuệ Giác, còn gọi là Chánh Trí hiểu thấu (liễu tri) tất cả các pháp dù vô vi, lẫn hữu vi đều Vô Ngã.
 
'''''Thấy vậy, này các Tỉ-khâu, bậc Đa văn Thánh đệ tử yếm li đối với sắc, yếm li đối với thọ, yếm li đối với tưởng, yếm li đối với các hành, yếm li đối với thức. Do yếm li, vị ấy li tham. Do li tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."'''''
Hàng 79 ⟶ 74:
 
Hai thái cực là tu hành khổ hạnh đày đọa thân xác hoặc hưởng thụ vật chất xa hoa mà không thiền quán để thấy rõ Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ đều là xa rời pháp Trung Đạo. Tu hành cần phải theo Trung Đạo, tức là thực hành quán sát Ngũ Uẩn (tương đương thực hành Tứ Niệm Xứ). Mà pháp thiền quán ở đây là Chánh Niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, Phật đã định nghĩa trong Kinh Tương Ưng, Phẩm Đạo, Phân tích đạo:
'''''Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.''' Chúng ta không thể thấy Vô Ngã chỉ bằng đọc tụng Kinh hoặc suy nghĩ về nó mà phải thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ để thấy và biết Vô Ngã.
''
Chúng ta không thể thấy Vô Ngã chỉ bằng đọc tụng Kinh hoặc suy nghĩ về nó mà phải thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ để thấy và biết Vô Ngã. Ghi chú: thiền quán Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là đồng nghĩa với thiền quán Thân Thọ Tâm Pháp (Tứ Niệm Xứ).
 
Như vậy thì điểm tinh yếu trong giáo lý đức Phật là tất cả các pháp dù hữu vi hay vô vi đều vô ngã. Chấp nhận có "chân ngã" không đạt ích lợi trên con đường đạt giải thoát, là dính mắc vào tham ái (tự ngã), gây ra luân hồi đau khổ. Ngược lại, người ta nên bớt dính mắc những kiến giải về thế gian (tưởng giải của Tưởng Uẩn) mà thay vào đó thực hành thiền quán, để thấy sự thật VÔ NGÃ của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Người chưa thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ thì thấy Vô Ngã vẫn là một lý thuyết nhưng người đã qua trải nghiệm thực hành thiền quán có kết quả thì thấy Vô Ngã là một sự thật chắc chắn. Một sự thật phũ phàng nhưng là sự thật. Cũng như ngày xưa người ta quan niệm mặt trời đi quanh trái đất nhưng sự thật phô bày ngược lại: trái đất đi xung quanh mặt trời vì người ta đã đi ra khỏi trái đất và thấy như vậy. Cũng vậy, Vô Ngã chỉ thấy được khi thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ.
 
==Thuyết Vô ngã trong Thượng Toạ bộ==
Hàng 178 ⟶ 171:
 
Song song với vấn đề phải suy nghĩ như "làm mà không có người làm" cũng có một vấn đề thực tế khác: Tại sao một người nào đó phải trau dồi kiến thức, tuân thủ giới luật và thực hành thiền định nếu không phải chính ông ta thâu nhận những kết quả ấy? Đối với Độc Tử bộ thì luật nhân quả chỉ có ý nghĩa khi có một chủ thể tiếp nhận quả báo của chính mình làm, tốt cũng như xấu.
 
==Kết luận==
Đạo Phật khẳng định tất cả các pháp hữu vi và vô vi đều là Vô Ngã. Điều này có thể làm cho người ta hoang mang, khó hiểu. Cũng như chân lý Vô Thường, ai cũng thừa nhận, còn chân lý khổ thì một số người thừa nhận, một số người không thừa nhận. Riêng Vô Ngã thì rất khó mà chấp nhận. Tuy nhiên Sự Thật không thể chỉ thông qua lời biện luận mà thấy rõ, lý luận, đọc sách có thể thấy Vô Ngã. Tương tự như trong khoa học thực nghiệm, Đức Phật khuyên nên khảo sát, quán sát Sắc Uẩn, Thọ uẩn, Tưởng Uẩn, Hành uẩn, Thức Uẩn bằng thiền quán Tứ Niệm Xứ để chứng nghiệm Sự Thật Vô Ngã. Sự Thật Vô Ngã (là các pháp không có cốt lỗi và do duyên sinh) vẫn tồn tại dù cho người ta có nhận hay không nhận Sự Thật Vô Ngã. Nó vẫn là sự thật.
Có nhiều lợi ích khi chứng nghiệm Vô Ngã bằng thực hành pháp thiền quán (thiền tuệ). Cụ thể: người ta có được thân tâm an lạc ngay trong hiện tại (nếu chưa chứng đắc Thánh), và có khả năng chứng đắc Thánh Quả, sự chứng đắc theo tuần tự: Tu Đà Hoàn, A Na Hàm, Tư Đà Hàm, A La Hán.
Khoa học ngày nay chứng minh rằng thiền mang lại nhiều lợi ích thì thiền quán Vô Ngã cũng góp vào phần mang lại sự an lạc, minh mẫn, sức khỏe cho con người. Ngoài ra, xã hội ngày nay với con người chưa thoát khỏi sự ích kỷ, tham lam, tự ái cá nhân, hẹp hòi v.v... cần theo tinh thần Vô Ngã để sống chan hòa, phục vụ hạnh phúc cho mình và cho người. Thuyết Vô Ngã có ý nghĩa tích cực trong trường hợp đó. Hãy sống vì tha nhân, hãy tạm quên "cái tôi" đáng ghét khi đối xử với người với đời.
Đức Phật từng nói rằng: "Như Lai không tranh cãi với đời, chỉ có đời tranh cãi với Như Lai, Như Lai giảng pháp giác ngộ không tranh cãi với đời". Thế nên, mọi người chúng ta không nên tranh cãi về Ngã, Vô Ngã nếu như điều đó không đem lại mục đích tốt đẹp như lợi ích cho Đạo (chứng Niết Bàn) và cho Đời (giúp đỡ người khác, cải thiện xã hội).
 
==Xem thêm==