Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vô ngã”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
'''Vô ngã''' (無我, sa. ''anātman'', pi. ''anattā''), là một trong [[Ba pháp ấn]] (sa. ''trilakṣaṇa'') (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo [[Phật giáo]].
==Kinh văn==
<div class="toccolours">
:1) Một thời [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Thế Tôn]] ở Bàrànasi ([[Ba-la-nại]]), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), [[vườn Lộc Uyển]].
Dòng 58:
</div>
==
Đạo Phật khẳng định tất cả các pháp hữu vi và vô vi đều là Vô Ngã. Vô ngã là một kết luận logic từ tính chất [[vô thường]] của vạn vật. Không thể có một "cá nhân" trường tồn bởi vì ngũ uẩn không có một cốt tủy bền vững và nó là do duyên sinh. Uẩn là nhóm, đám, tập hợp. Ngũ uẩn gồm Sắc Uẩn là nhóm sắc thuộc phần thân thể (các cơ quan bộ phận). Thọ Uẩn là nhóm các cảm giác khổ, lạc, bất khổ bất lạc. Hành uẩn là nhóm các tâm hành có sự chủ ý, tạo nghiệp, gồm 50 tâm hành (không kể Thọ, Tưởng). Tưởng Uẩn là nhóm các tư tưởng, hồi tưởng...Thức Uẩn là nhóm các tâm (tiến trình tâm và các tâm sở như Thọ Tưởng Hành) đồng sinh, đồng diệt cùng với Tâm. Thức và Tâm là đồng nghĩa trong mọi ngữ cảnh của Kinh Nikaya. Như Lai nói "'''''Do vậy, này các Tỉ-khâu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."''''' Tất cả Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn là vô ngã trong đủ cả 11 khía cạnh: quá khứ, hiện tại, vị lai, thuộc nội (cơ thể), thuộc ngoại (ngoài cơ thể), thô (xấu, không vi diệu), tế (đẹp, vi diệu), hạ liệt, thù thắng (cao thượng), xa, gần.
Hành giả cần phải thực hiện thiền quán tất cả 11 khía cạnh này để chứng đắc Vô Ngã (trình độ A la hán) toàn diện. Vì sao nói toàn diện? Bởi vì trình độ Thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm vẫn chưa thể thấy hết 11 khía cạnh này. Chỉ có bậc A la hán, bậc lậu tận, bậc Vô học mới có thể thấy rõ, biết rõ hết 11 khía cạnh này bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ - Thân Thọ Tâm Pháp. Các hành giả được khuyên là nên tìm hiểu Kinh Tứ Niệm Xứ và thực hành từng bước để có thể có khả năng quán sát tất cả các khía cạnh này. Ví dụ như Thánh Tu Đà Hoàn thấy Sắc bên trong (thân thể) là Vô Ngã, vị ấy hoàn toàn thấy thân là vô ngã, tức là lìa tham ái ở Thân nhưng các vị ấy vẫn có thể dính mắc vào Sắc bên ngoài cơ thể (người khác hoặc vật đáng yêu đáng thích). ▼
▲Hành giả cần phải thực hiện thiền quán tất cả 11 khía cạnh này để chứng đắc Vô Ngã (trình độ A la hán) toàn diện
'''Tổng quát:''' ''Vì Sắc là vô thường (có sinh tất phải có diệt) cho nên Sắc mang tính Khổ (bất toại nguyện). Vì mang tính bất toại nguyện (khổ) nên không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Do vậy, Sắc là Vô Ngã. Không thể bảo Sắc là của ta, là ta, là tự ngã của ta là vì không thể ngăn chặn được sự sinh diệt của Sắc, Sắc sinh ra là do duyên sinh (theo điều kiện đủ) và Sắc hoại diệt cũng là do duyên sinh. vì thế Sắc là Vô Ngã.''▼
▲
Mục đích quán sát (thiền quán) cả 11 khía cạnh này là cắt đứt sự dính mắc vào Ngũ Uẩn. Đó là sự chặt đứt tham ái (1 chi trong 12 chi thuộc 12 Nhân Duyên). Quá trình quán sát này làm phát sanh Tuệ Giác, còn gọi là Chánh Trí hiểu thấu (liễu tri) tất cả các pháp dù vô vi, lẫn hữu vi đều Vô Ngã.
'''''Thấy vậy, này các Tỉ-khâu, bậc Đa văn Thánh đệ tử yếm li đối với sắc, yếm li đối với thọ, yếm li đối với tưởng, yếm li đối với các hành, yếm li đối với thức. Do yếm li, vị ấy li tham. Do li tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."'''''
Hàng 79 ⟶ 74:
Hai thái cực là tu hành khổ hạnh đày đọa thân xác hoặc hưởng thụ vật chất xa hoa mà không thiền quán để thấy rõ Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ đều là xa rời pháp Trung Đạo. Tu hành cần phải theo Trung Đạo, tức là thực hành quán sát Ngũ Uẩn (tương đương thực hành Tứ Niệm Xứ). Mà pháp thiền quán ở đây là Chánh Niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, Phật đã định nghĩa trong Kinh Tương Ưng, Phẩm Đạo, Phân tích đạo:
'''''Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.''' Chúng ta không thể thấy Vô Ngã chỉ bằng đọc tụng Kinh hoặc suy nghĩ về nó mà phải thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ để thấy và biết Vô Ngã.
Như vậy thì điểm tinh yếu trong giáo lý đức Phật là tất cả các pháp dù hữu vi hay vô vi đều vô ngã. Chấp nhận có "chân ngã" không đạt ích lợi trên con đường đạt giải thoát, là dính mắc vào tham ái (tự ngã), gây ra luân hồi đau khổ. Ngược lại, người ta nên bớt dính mắc những kiến giải về thế gian (tưởng giải của Tưởng Uẩn) mà thay vào đó thực hành thiền quán, để thấy sự thật VÔ NGÃ của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Người chưa thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ thì thấy Vô Ngã vẫn là một lý thuyết nhưng người đã qua trải nghiệm thực hành thiền quán có kết quả thì thấy Vô Ngã là một sự thật chắc chắn. Một sự thật phũ phàng nhưng là sự thật. Cũng như ngày xưa người ta quan niệm mặt trời đi quanh trái đất nhưng sự thật phô bày ngược lại: trái đất đi xung quanh mặt trời vì người ta đã đi ra khỏi trái đất và thấy như vậy. Cũng vậy, Vô Ngã chỉ thấy được khi thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ.
==Thuyết Vô ngã trong Thượng Toạ bộ==
Hàng 178 ⟶ 171:
Song song với vấn đề phải suy nghĩ như "làm mà không có người làm" cũng có một vấn đề thực tế khác: Tại sao một người nào đó phải trau dồi kiến thức, tuân thủ giới luật và thực hành thiền định nếu không phải chính ông ta thâu nhận những kết quả ấy? Đối với Độc Tử bộ thì luật nhân quả chỉ có ý nghĩa khi có một chủ thể tiếp nhận quả báo của chính mình làm, tốt cũng như xấu.
==Xem thêm==
|