Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nicki Minaj”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 66:
Minaj tham gia đóng một bộ phim điện ảnh chiếu rạp đầu tiên trong sự nghiệp của mình mang tên ''[[Vợ, người yêu, người tình]]''. Bộ phim được bấm máy quay vào mùa xuân năm 2013 và khởi chiếu rộng rãi vào ngày 25 tháng 4 năm 2014.<ref>{{chú thích web | title =Nicki Minaj to make movie debut in new Cameron Diaz comedy | last = Levine | first = Nick | publisher =[[NME]] | date =29 tháng 4 năm 2013 | url =https://www.nme.com/news/film/nicki-minaj-to-make-movie-debut-in-new-cameron-dia-883020 | accessdate = ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Cô vào vai Lydia, trợ lý của Carly (do [[Cameron Diaz]] thủ vai).<ref>{{chú thích web | last =Kit | first =Borys | title =Nicki Minaj Makes Film Debut in Cameron Diaz's 'The Other Woman' | work =The Hollywood Reporter | date =25 tháng 4 năm 2013 | url =http://www.hollywoodreporter.com/news/nicki-minaj-makes-film-debut-446543 | accessdate = ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref><ref>{{chú thích web | title =Nicki Minaj 'To Star in Movie with Brad Pitt' | publisher=MTV News | date =18 tháng 4 năm 2013 | url =http://www.mtv.co.uk/news/nicki-minaj/379898-nicki-minaj-ridley-scott-movie-role-film-brad-pitt | accessdate = ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Trước khi cho ra mắt album phòng thu thứ ba, Minaj miêu tả album, lấy tựa đề là ''[[The Pinkprint]]'', là "một nhạc phẩm tiếp nối và là phiên bản mở rộng của album ''The Re-Up'' trước đó", và cũng cho biết album này sẽ tập trung vào "cội nguồn nhạc hip-hop" của mình.<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/the-juice/1565003/nicki-minaj-will-focus-on-rap-for-upcoming-album|title=Nicki Minaj Will 'Focus On Rap' For Upcoming Album|first=Erika|last=Ramirez|work=Billboard|date=28 tháng 5 năm 2013|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.bet.com/news/music/2012/11/30/nicki-minaj-announces-third-album-as-continuation-of-the-re-up.html|title=Nicki Minaj Says Third Album Will Be an Extension of The Re-Up|first=Arielle|last=Loren|publisher=[[BET]]|date=30 tháng 11 năm 2012|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Trong một buổi phỏng vấn với [[MTV]], nữ rapper chia sẻ rằng album mới này sẽ vươn lên "một đẳng cấp mới" và cô "có nhiều thứ để giãi bày". Nữ ca sĩ phát biểu: "Tôi thực sự thấy hào hứng, đội ngũ làm việc với tôi lần này hoàn toàn mới và họ mang đến những giai điệu tươi trẻ mà tôi chưa bao giờ trải nghiệm qua."<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1716802/nicki-minaj-new-music-2014/|title=Nicki Minaj 'Delving Into Deep Sh--' On 2014 Album|last=Markman|first=Rob|publisher=MTV News|date=11 tháng 4 năm 2013|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref>
 
"[[Pills n Potions]]" là đĩa đơn đầu tiên chính thức của album và được phát hành vào tháng 5 năm 2014.<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/events/bbma-2014/6092077/nicki-minaj-single-title-pinkprint-pills-potions-new-album|title=Nicki Minaj Reveals New Single Title at 2014 Billboard Music Awards|last=Lipshutz|first=Jason|work=Billboard|date=19 tháng 5 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Bài hát "[[Anaconda (bài hát)|Anaconda]]" chính thức ra mắt công chúng vào tháng 8 cùng năm và trở thành đĩa đơn thứ hai của album. Đĩa đơn từng đạt được vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100, là đĩa đơn có thứ hạng cao nhất của nữ rapper tại Hoa Kỳ đến nay.<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/the-juice/6206907/nicki-minaj-previews-steamy-anaconda-video-unleashes-full-track|title=Nicki Minaj Previews Steamy 'Anaconda' Video, Unleashes Full Track|last=Brandle|first=Lars|work=Billboard|date=4 tháng 8 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref><ref name="charthistory">{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/music/nicki-minaj/chart-history|title=Nicki Minaj Chart History|work=Billboard|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Kể từ khi phát hành, video của bài hát thu hút nhiều tranh cãi nhưng vẫn được lan truyền rộng rãi trên mạng internet; nó lập kỉ lục video có lượt xem cao nhất trong vòng 24 giờ đầu tiên đăng tải trên hệ thống [[Vevo]] trongvào thời điểm ra mắt, phá kỉ lục trước đó của [[Miley Cyrus]] với video âm nhạc của ca khúc "[[Wrecking Ball (bài hát của Miley Cyrus)|Wrecking Ball]]".<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/news/6229110/nicki-minaj-anaconda-vevo-record|title=Nicki Minaj's 'Anaconda' Video Breaks Vevo Record|last=Lewis|first=Hilary|work=Billboard|date=22 tháng 8 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Tháng 12 năm 2014, Minaj nhận được hai đề cử [[Giải Grammy]] cho hai hạng mục [[Giải Grammy cho Bài hát Rap xuất sắc nhất|Bài hát Rap xuất sắc nhất]] (với đĩa đơn "Anaconda") và [[Giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất|Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất]] (với đĩa đơn "[[Bang Bang (bài hát của Jessie J, Ariana Grande và Nicki Minaj)|Bang Bang]]" trình bày cùng [[Jessie J]] và [[Ariana Grande]]).<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/events/grammys-2015/6465551/grammys-2015-winners-57th-annual|title=Grammys 2015: And the Winners Are ...|author=Nhân viên của tạp chí ''Billboard''|work=Billboard|date=8 tháng 2 năm 2015|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref>
 
''The Pinkprint'' được phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2014 và ra mắt tại vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200, với tổng doanh số tuần đầu tiên là 244.000 bản (198.000 bản thuần và 46.000 [[đơn vị album tương đương]] cộng với lượt [[Streaming|stream]]).<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6415137/taylor-swift-billboard-200-nicki-minaj|title=Taylor Swift Back at No. 1 on Billboard 200, Nicki Minaj Debuts at No. 2|last=Caulfield|first=Karl|work=Billboard|date=24 tháng 12 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6422239/nicki-minaj-pinkprint-debuts-no-1-top-rbhip-hop-albums|title=Nicki Minaj's 'The Pinkprint' Debuts at No. 1 on Top R&B/Hip-Hop Albums|last=Mendizabal|first=Amaya|work=Billboard|date=26 tháng 12 năm 2019|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Sau khi phát hành, album đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình. Biên tập viên Niki McGloster từ tạp chí ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' đã gọi nó là "album hay nhất của cô cho đến nay".<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/review/6406343/nicki-minaj-the-pinkprint-track-by-track-review|title=Nicki Minaj, 'The Pinkprint': Track-by-Track Review|last=McGloster|first=Niki|work=Billboard|date=15 tháng 12 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Sheldon Pearce từ website ''[[The A.V. Club]]'' thì cho rằng ''The Pinkprint'' là phương tiện giúp Minaj "có thể giữ cho các cảm xúc trong người cô cân bằng".<ref>{{chú thích web|url=https://music.avclub.com/nicki-minaj-unwittingly-defends-poptimism-with-raw-outb-1798182220|title=Nicki Minaj unwittingly defends poptimism with raw outbursts of feeling|last=Pearce|first=Sheldon|work=[[The A.V. Club]]|date=16 tháng 12 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref> Nhà phê bình Randall Roberts từ tờ ''[[Los Angeles Times]]'' viết nhận xét rằng xuyên xuốt album này, Minaj "chú trọng việc phô trương tài năng để khám phá và ghi lại nhiều tâm trạng khác nhau của mình. Sự hoà quyện giữa các thứ tâm trạng này thường, nếu nói là luôn luôn, làm say mê lòng người".<ref>{{chú thích web|url=https://www.latimes.com/entertainment/music/la-et-ms-nicki-minaj-20141215-column.html|title=The many moods of Nicki Minaj on 'The Pinkprint'|last=Roberts|first=Randall|work=[[Los Angeles Times]]|date=15 tháng 12 năm 2014|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20151018041623/https://www.latimes.com/entertainment/music/la-et-ms-nicki-minaj-20141215-column.html|archivedate=ngày 18 tháng 10 năm 2015}}</ref> Tại lễ trao [[giải Grammy lần thứ 58]], nữ rapper nhận được thêm ba đề cử nữa, trong đó bao gồm đề cử thứ hai của cô cho hạng mục Album nhạc rap xuất sắc nhất với ''The Pinkprint''.<ref>{{chú thích web|url=http://time.com/4224932/grammys-2016-winners-list-nominees/|title=Grammys 2016: Winners List, Full Nominations|author=Nhân viên của tạp chí ''Time''|work=[[Time (tạp chí)|Time]]|date=15 tháng 2 năm 2016|accessdate=ngày 6 tháng 6 năm 2019}}</ref>