Sửa dịch máy.
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thay ref lặp lại, Executed time: 00:00:11.1165205 using AWB |
Sửa dịch máy. |
||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật
| honorific prefix = [[Đặc phái]]
| tên = Edmund Roberts
| hình = <!-- just the filename, without the File: or Image: prefix or enclosing [[brackets]] -->
Dòng 13:
| tên khác =
| nổi tiếng = [[Hiệp ước Thân hữu và Thương mại Xiêm-Mỹ]]<br/> Hiệp ước Oman 1834
| công việc = [[Thương gia]]; [[Đặc phái viên]]
| người hôn phối = Catherine Whipple Langdon
| con cái = 11
Dòng 43:
}}
{{dịch thuật}}
'''Edmund Roberts''' (29 tháng 6 năm [[1784]] - 12 tháng 6 năm [[1836]]) là một [[Ngoại giao|nhà ngoại giao]] [[
Roberts đã ký kết hiệp ước với Thái Lan{{Sfn|United States Congress|1904|p=10}} và Said bin Sultan, Quốc vương của Muscat và Oman,{{Sfn|Davis|1873|p=602}} các hiệp ước được phê chuẩn tại [[Washington, D.C.|Washington, DC]] ngày 30 tháng 6 năm [[1834]]. Ông quay trở lại đó vào năm [[1836]] để trao đổi việc phê chuẩn với Oman và Thái Lan.
== Cuộc đời ==
Roberts sinh ngày 29 tháng 6 năm [[1784]], mẹ là Sarah Griffiths, bà sống ở [[Portsmouth, New Hampshire]]
{{Chú thích sách|url=http://www.dcnyhistory.org/bioindex.html|title=Biographical Review|date=ngày 27 tháng 1 năm 2011|publisher=Biographical Review Publishing Company (at Delaware County, NY Genealogy and History Site)|isbn=|location=Boston|chapter=Section 4|quote='''BELL BROTHERS.'''...Frances Lear Roberts, wife of Calvin H. Bell, was the youngest daughter of Edmund and Catharine Whipple (Langdon) Roberts, of Portsmouth, N.H.... The Roberts family are of English ancestry... Their grandfather was Captain Edmund Roberts, of the British navy; and their father was Edmund Roberts, Envoy Extraordinary and Minister Plenipotentiary of the United States to several Asiatic courts. He died at Macao, China, ngày 12 tháng 6 năm 1836, and was buried there.|accessdate =ngày 11 tháng 2 năm 2013|orig-year=First published in 1895|chapter-url=http://www.dcnyhistory.org/books/breview4.html}}</ref>
=== Cuộc sống vào thời kỳ "thống nhất các tiểu bang" ===
Dòng 57:
Roberts tham gia vào hải trình thương mại tam giác ở New England với tư cách là chủ tàu và tàu chở hàng cỡ lớn của riêng mình, nhưng ông không bao giờ làm thuyền trưởng.
Robert Hopkins Miller kể rằng Roberts đã đánh mất sự giàu có qua hàng loạt các biến cố, nhưng đã có cơ hội vào năm [[1823]] khi ông được bổ nhiệm làm [[Lãnh sự]] Hoa Kỳ tại Demerara (nay thuộc [[Guyana]]). Tuy nhiên, Miller đã
"''Cuộc nổi dậy năm 1823 có một ý nghĩa đặc biệt... [trong đó nó] không thu hút được sự chú ý ở [[Anh|nước Anh]] trong và bên ngoài [[Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Quốc hội]] về
=== Đến cảng xa nhất của Ấn Độ giàu có ===
[[Tập tin:Seal of Salem, Massachusetts.png|nhỏ|Latin: ''Div viêm Indiae usque ad ultimum sinum'']]
Sự nghiệp ngoại giao của Roberts được thiết lập bằng sự thương mại của [[Salem]] với [[Trung Quốc]] và [[Đông Ấn]].
== Các sự kiện tiếp theo ==
[[Tập tin:USS_Peacock_1813.jpg|phải|nhỏ| ''Peacock (Con công)''. Alfred T.
Vận may ủng hộ Roberts. Người bạn của ông là Woodbury, người đang là thượng nghị sĩ,
Vào giữa tháng 2 năm 1832, tàu ''Boxer'' được phái đến [[Liberia]], với lệnh gia nhập ''Peacock'' ngoài khơi bờ biển [[Brasil|Brazil]], nhưng các con tàu đã không gặp nhau cho đến ngày 5 tháng 6 năm [[1834]] – ở [[Batavia, Đông Ấn Hà Lan|Batavia]].{{Sfn|Roberts|1837|p=327}} Vào tháng 3 năm 1832, ''Peacock'' chạy tàu tới Brazil dưới sự chỉ huy của Tư lệnh David Geisinger, với Francis Baylies được bổ nhiệm là [[Đại biện|Đại biện lâm thời d'affaires]] ở [[Buenos Aires]] và Phái viên bí mật Roberts. Ông được phác thảo một hải trình dựa theo cuốn sách được xuất bản hai năm trước bởi [[John Crawfurd]] khi làm nhiệm vụ Đại sứ cho [[Công ty Đông Ấn Anh|Công ty Đông Ấn]] vào năm [[1822]] ở [[Siam]] và [[Việt Nam|Cochinchina]]. Roberts, trong cả hai báo cáo của mình với [[Chính quyền liên bang Hoa Kỳ|Chính phủ]] {{Rp|p.305}} và trong
''Tàu Boxer'' đã thất bại trong thời gian được chỉ định, các đơn
== Nhiệm vụ đầu tiên của Roberts ==
Theo lệnh thu thập thông tin trước khi đến [[Việt Nam|Cochinchina]], ''Peacock'' đi thuyền đến [[Manila]] bằng cách đến
=== Macao và thành phố Canton ===
[[Tập tin:USSCongress.png|phải|nhỏ| ''Tàu Congress'']]
Người Mỹ đến cảng [[Quảng Châu|Canton (Quảng Châu)]] được đối xử giống như những người nước ngoài khác, sẵn sàng thực hiện giao dịch thông qua các ''co-hong'', tức các nhà xưởng Trung Quốc được trao độc quyền của triều đình trong thương mại với nước ngoài. Thương mại là sinh lợi, nhưng thương nhân người nước ngoài bị xem là những người thấp kém về xã hội và chính trị, không có gì đảm bảo cho cuộc sống, tài sản hoặc quyền thương mại hoặc cư trú của họ.
Vào những tháng cuối năm 1832, Roberts đã đến thăm [[Macao]] và [[Quảng Châu]], nơi ông lưu ý: "''Các thương nhân Trung Quốc có tiếng là những người buôn bán sắc sảo: họ
=== Cochin-China ===
{{see also|Minh Mạng#Với phương Tây|Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam#Trước thế kỷ XX}}
[[Tập tin:1820 1829 Siam and Cochin China John Crawfurd journal of an embassy o.jpg|nhỏ|Bản đồ [[Xiêm]] và Cochin China ([[Việt Nam]]) (năm [[1820]]-[[1829]])
Sáu tuần sau khi đến Linting ([[Quảng Châu]]), và sau khi chịu đựng nhiều ngày mưa và có gió thổi từng cơn, tàu ''Peacock'' chạy tới vịnh Turan ([[Đà Nẵng]]) vốn là điểm gần và tốt nhất để giao tiếp với kinh thành [[Huế]], cách khoảng năm mươi dặm. Nhưng tàu đã không thể thả neo ngoài khơi của Huế do [[gió mùa Đông Á]].<ref name=":0">The Project Gutenberg EBook of [http://www.gutenberg.org/files/44075/44075-h/44075-h.htm Embassy to the Eastern Courts of Cochin-China, Siam, and Muscat], by Edmund Roberts</ref> Ra khỏi vịnh Turan vào ngày 1 tháng 1 năm [[1833]]: nhưng thời tiết rất xấu, cùng với dòng chảy mạnh của biển, những cơn gió cứ liên tục đổi hướng, cứ nữa giờ, từ tây bắc tới đông bắc.
|