Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chính Nghĩa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{sơ khai Hành chính Việt Nam}} → {{sơ khai Hưng Yên}} using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 27:
}}
 
'''Chính Nghĩa''' là một [[Xã (Việt Nam)|xã]] thuộc [[huyện (Việt Nam)|huyện]] [[Kim Động]], [[Tỉnh (Việt Nam)|tỉnh]] [[Hưng Yên]], [[Việt Nam]]. Nằm gồm 4phía thônĐông DưỡngBắc Phú,huyện Tạlỵ Hạ,Kim Tạ TrungĐộng, Tạcách Thượng.thành phố thônHưng DưỡngYên Phú10km. Phía làngĐông cổgiáp xưa của ViệtXá, Nam.Tây giáp nhiềuNgũ diLão, tíchNam lịchgiáp sửthị văntrấn hóaLương như Đình Dưỡng PhúBằng, ĐìnhBắc Tạgiáp Trung, ĐềnNhân Thọ VựcLa đặc biệt là di tích LSVH Miếu Mái - Chùa Dưỡng Phú là 1có truyền thống cáchNgũ mạngLão, trước cách mạng tháng Támđồngvị chítrí Hoàngquan Quốctrọng Việtcả về hoạtkinh động,tế nhiềulẫn giaquân đình trong xã nuôi giấu cán bộ cách mạng cho đến khi giành được độc lập xã đã được nhà nước công nhậnsự,AHLLkhu vực trangmàu thờimỡ của khángđồng chiếnbằng chốngBắc PhápBộ. mảnhgồm đất4 hiếuthôn họcDưỡng từPhú, xưaTạ Hạ, cụTạ NguyễnTrung, MậuTạ ThôngThượng. đỗDiện tiếntích tự khoanhiên Canh Tuất 1556 đời Mạc Phúc Nguyên đến nay xã có nhiều tiến sĩ643,75 giáo sư như giáo sư Đỗ Ninhha, giáodiện tích Ngôcanh Hàmtác 402 ha. 2Bình vịquân tướngdiện lãotích thànhcanh cáchtác mạng là đại tướng Nguyễn Quyết1,8 thượngsào/ tướngkhẩu. Nguyễn Trọng Xuyên.
 
Là vùng đất có lịch sử lâu đời từ thời kỳ các vua Hùng dựng nước, có thôn Dưỡng Phú là làng Việt cổ xưa lâu đời. Chính Nghĩa có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và là điều kiện quan trọng để dân cư sớm tập trung đông đúc định cư, lập nghiệp. Trước năm 1945 đơn vị hành chính gồm có các cấp: tỉnh, phủ, huyện, tổng, xã. Cấp xã lúc đó tương đương cấp thôn ngày nay, xã Dưỡng Phúc (nay là thôn Dưỡng Phú) thuộc tổng Bằng Ngang, xã Tạ Xá thuộc tổng Tạ Xá. Địa giới xã Tạ Xá so vào ngày nay là các thôn Tạ Hạ (hay làng Hạ Sảo hay làng Theo), Tạ Trung (hay tè Đông) và Tạ Thượng (hay Tè Thượng). Tháng 12/1946 do yêu cầu của cách mạng xã Tân Tiến được thành lập trên cơ sở hợp nhất xã Dưỡng Phú với xã Tạ Xá thuộc huyện Kim Động, phủ Khoái Châu. Sau đó chính quyền xoá bỏ cấp phủ và tổng lập các đơn vị hành chính là tỉnh, huyện, xã, thôn. Theo đó xã Tân Tiến thuộc huyện Kim Động. Tháng 6/1948 do yêu cầu của cách mạng cấp trên quyết định hợp nhất xã Tân Tiến với xã Cửu An thành xã Chính Nghĩa. Ngày 20/6/1955 tại đình thôn Động Xá cấp trên quyết định tách xã Chính Nghĩa thành 2 xã ; xã Cửu An cũ lấy tên mới là xã Lương Bằng (nay là thị trấn Lương Bằng) xã Tân Tiến cũ được giữ tên cũ xã Chính Nghĩa
Xã Chính Nghĩa có diện tích 6,53&nbsp;km², dân số năm 1999 là 6257 người,<ref name=MS>{{Chú thích web| url =http://mic.gov.vn/uploads/20100623/E124-2009%20(31-12)2-MSDVHCVN.xls | tiêu đề =Mã số đơn vị hành chính Việt Nam | ngày truy cập =ngày 10 tháng 4 năm 2012 | nhà xuất bản =Bộ Thông tin & Truyền thông}}</ref> mật độ dân số đạt 958 người/km².
 
Năm 1968 tỉnh Hưng Yên được hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng. Năm 1977 , nhà nước quyết định đổi tên xã Chính Nghĩa thành xã Tạ Xá đến năm 1979 theo QĐ 79-CP của Hội đồng Chính phủ, huyện Kim Động sáp nhập với huyện Ân Thi thành huyện Kim Thi, xã Tạ Xá thuộc huyện Kim Thi. Năm 1993 Nhà nước quyết định đổi lại tên xã Tạ Xá thành xã Chính Nghĩa.
 
Năn 1996 thực hiện nghị định số 50 ngày 27-1-1996 của thủ tướng Chính phủ, huyện Kim Động được tái lập, xã Chính Nghĩa thuộc huyện Kim Động. Đến năm 1997 tỉnh Hưng Yên được tái lập, xã Chính Nghĩa vẫn thuộc huyện Kim Động.
 
Chính Nghĩa nằm ven sông Cửu An và quốc lộ 39A chạy từ phố Nối qua thôn Tạ Thượng, phố Ngàng, đến thị xã Hưng Yên qua Triều Dương sang Thái Bình; quốc lộ 38B chạy qua địa phận Chính Nghĩa từ phố Ngàng ra huyện lỵ Ân Thi đến Kẻ Sặt hợp vào quốc lộ 5 đi Hải Dương, Hải Phòng.
 
Là xã có truyền thống văn hoá lâu đời nên trong địa bàn xã có nhiều di tích lịch sử văn hoá như Đình Dưỡng Phú, Đình Tạ Trung, Đền Thọ Vực và tiêu biểu là di tích LSVH Miếu Mái - Chùa Dưỡng Phú ở cụm di tích này còn lưu giữ được nhiều di vật cổ thời Trần như 1 ngôi mộ cổ của bà chúa Phận Nguyễn Thị La được viện khảo cổ học tiến hành khai quật năm 1993 trong đó có tháp đất nung, tiền cổ thời Lý- Trần gạch ngói hoa văn thời Trần và 1 bệ đá hoa sen cũng được tạo tác trong thời gian này trên bệ được khắc các mẫu hoa văn Rồng mây của nền mỹ thuật thời Trần, bốn góc có chim thần đang nâng đội bệ toà sen.
 
Là 1 xã có truyền thống cách mạng, trước cách mạng tháng Tám có đồng chí Hoàng Quốc Việt về hoạt động, nhiều gia đình trong xã tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng cho đến khi giành được độc lập, xã đã được nhà nước công nhận là AHLL vũ trang thời kì kháng chiến chống Pháp. Là mảnh đất hiếu học từ xưa có cụ Nguyễn Mậu Thông đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất 1556 đời Mạc Phúc Nguyên đến nay xã có nhiều tiến sĩ, giáo sư như giáo sư Đỗ Ninh, giáo sư Ngô Hàm và có 2 vị tướng lão thành cách mạng là đại tướng Nguyễn Quyết, thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên.,<ref name="MS">{{Chú thích web| url =http://mic.gov.vn/uploads/20100623/E124-2009%20(31-12)2-MSDVHCVN.xls | tiêu đề =Mã số đơn vị hành chính Việt Nam | ngày truy cập =ngày 10 tháng 4 năm 2012 | nhà xuất bản =Bộ Thông tin & Truyền thông}}</ref>
 
==Chú thích==