Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trường Giang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 28:
==Địa lý==
[[Hình:Map of the Yangtze River.gif|nhỏ|320px||Lưu vực Trường Giang]]
Con sông bắt nguồn từ một số nhánh ở thượng lưu thuộc địa phận các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam, Quý Châu, tuy nhiên hai trong số đó được xem là đầu nguồn của nó là nhánh Tuotuo và Dan Qu. Chính phủ Trung Quốc thì cho rằng nguồn nhánh Tuotuo bắt đầu từ chân của băng hà nằm ở phía tây của núi [[Geladandong]] ở [[Dãy núi Tanggula|dãi núi Dangla]] rìa phía đông của [[cao nguyên Thanh Tạng]]. Tuy nhiên theo các nguồn địa lý (như sông dài nhất tính từ biển) thì nguồn của nó nằm ở vùng đất ngập nước ở tọa độ {{coord|32|36|14|N|94|30|44|E|type:landmark_region:AU}} và độ cao 5170 m trên mực nước biển, chính là đầu nguồn của nhánh Dan Qu<ref>{{chú thích web | url = http://www.cers.org.hk/index.php?option=com_content&view=category&id=27&layout=blog&Itemid=61 | tiêu đề = China Exploration & Research Society | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 10 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>. Các nhánh này hợp lưu và sau đó chảy về phía đông qua [[Thanh Hải (Trung Quốc)|Qinghai]], rồi vòng về phía nam tạo thành một thung lũng sâu ở ranh giới của [[Tứ Xuyên]] và [[Tây Tạng]] rồi mới đến [[Vân Nam]]. Trong phạm vi thung lũng này, cao độ của sông giảm mạnh từ trên 5000m xuống dưới 1000m. Lưu vực trung lưu của sông thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. Lưu vực hạ lưu thuộc các tỉnh An Huy, Chiết Giang, Thượng Hải, Giang Tô.
 
Sông được hình thành từ [[Thế Eocen|Eocene]], khoảng 45 triệu năm trước<ref>Richardson N.J.,Densmore A.L.,Seward D. Wipf M. Yong L. (2010). Did incision of the Three Gorges begin in the Eocene? Geology 38: 551-554. {{doi|10.1130/G30527.1}}</ref> nhưng một số người không chấp nhận quan điểm này.<ref>Wang, JT; Li, CA; Yong, Y; Lei, S (2010) Detrital Zircon Geochronology and Provenance of Core Sediments in Zhoulao Town, Jianghan Plain, China. Journal of Earth Science 21 (3): 257-271.</ref>