Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tự do học thuật”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Rutorte (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Rutorte (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Tự do học thuật''' là quyền tự do [[giảng dạy]], [[học tập]], và theo đuổi [[tri thức]] và [[nghiên cứu]] của giảng viên và sinh viên mà không bị can thiệp vô lý hay bị giới hạn bởi luật pháp, các quy định của cơ sở giáo dục, hoặc áp lực của công chúng. Những yếu tố cơ bản của tự do học thuật bao gồm [[quyền tự do]] của giảng viên trong việc tìm hiểu bất cứ chủ đề tri thức nào mà mình quan tâm; quyền trình bày những khám phá của mình cho sinh viên, đồng nghiệp, và những người khác biết; quyền công bố bằng cách xuất bản những số liệu và kết luận của mình mà không bị kiểm soát hay [[kiểm duyệt]]; và quyền giảng dạy theo cách mà mình thấy phù hợp về mặt chuyên môn. Đối với sinh viên, những yếu tố cơ bản bao gồm quyền tự do học tập và nghiên cứu những gì mình quan tâm và quyền đưa ra những kết luận của chính mình, cũng như quyền biểu đạt những ý kiến của mình.<ref name="EB">{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/2591/academic-freedom |tiêu đề=Academic Freedom|nhà xuất bản=Encyclopedia Britannica |ngày tháng= |ngày truy cập=ngày 22 tháng 11 năm 2013}}</ref>
 
Các nước không có tự do học thuật thường được cai trị bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi trong xã hội và giới hàn lâm trong khi tại các nước phát triển quyền tự do học thuật được nhà nước bảo vệ vì nó được coi là nền tảng thiết yếu để phát triển tri thức và phụng sự xã hội, và do đó là trụ cột quan trọng của mọi xã hội dân chủ và văn minh. Tại các nước phát triển chính quyền kiềm chế can thiệp vào quyền tự chủ đại học và tự do học thuật vì họ biết rằng tri thức là nền tảng của sức mạnh quốc gia, đồng thời họ có niềm tin vào bản chất lành mạnh, năng lực tự quản và tự sửa sai của cộng đồng học thuật.<ref>Kiến tạo một nền đại học thực thụ, Vũ Thành Tự Anh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn</ref> Theo những người ủng hộ tự do học thuật thì quyền tự do này ra đời không phải để giảng viên và sinh viên có được sự tiện lợi hay dễ chịu mà vì lợi ích của xã hội; nghĩa là, những lợi ích lâu dài xã hội được phục vụ tốt nhất khi quá trình giáo dục dẫn đến sự tiến bộ về mặt tri thức, và [[tri thức]] có thể đạt được sự tiến bộ cao nhất khi việc tìm hiểu tri thức không bị những ràng buộc từ phía nhà nước, giáo hội, những định chế hay tổ chức khác, hay từ phía các [[nhóm lợi ích]].<ref name="EB"/>
 
Thời trung cổ từ thế kỷ 12-15, tại Châu Âu, các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự quản mang tính hiệp hội nghề nghiệp, gồm quyền thành lập, kết nạp và khai trừ thành viên, cũng như tự do bầu chọn người đại diện. Những quyền tự do này được bảo trợ bởi Giáo hoàng, và sau đó là bởi các ông vua. Từ thế kỷ 17, các tác giả như Spinoza, Putendorf, Collins hay Gundling đòi hỏi "tự do triết học" (libertas philosophandi), thoát khỏi sự khống chế của thần học. Tự do học thuật bắt đầu được áp dụng tại cải cách đại học ở Halle (Đức) năm 1694, sau đó là điều lệ của phân khoa triết, đại học Göttingen (Đức) năm 1737. Cách mạng Pháp (1789) có sự pha trộn, rồi hòa quyện giữa ý thức đặc quyền của tầng lớp ưu tú với ý thức tự do chính trị của quần chúng. Theo Kant Kant "''Trong đại học phải có một chuyên khoa giảng dạy độc lập với mệnh lệnh của nhà nước. Nó không ra lệnh, nhưng có quyền tự do phán đoán về tất cả những gì liên quan đến mối quan tâm khoa học là đi tìm chân lý''".<ref>Tự do học thuật: Sinh lộ của một nền văn minh, Bùi Văn Nam Sơn, Văn hóa Nghệ An</ref>.
 
{{sơ khai}}