Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
bản dịch gốc đã bị cắt xén, tự biên tập lại theo ý riêng mà sai lạc hoàn toàn. |
||
Dòng 8:
| image_size =
| alt =
| caption = '''Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái:''' [[Bức tường Berlin]] trên nền [[Cổng Brandenburg]], [[CAT "C"]] ở [[Berlin]], [[Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc|quân đội ở Tiệp Khắc]], [[Jan Palach]], một cuộc biểu tình gần [[Bức tường Berlin]], ký kết thỏa thuận loại bỏ vũ khí hóa học của [[Mikhail Gorbachev]] và [[George Bush]].<br>
'''Dưới:''' Cuộc đối đầu của các khối vào năm 1959:
{{Collapsible list|title='''Bản đồ
{{Legend|#0000b0|Các nước thành viên NATO}}
{{Legend|#96b3f6|Các nước đồng minh khác của Hoa Kỳ}}
Dòng 31:
| caption1 = Người Đức xem các máy bay tiếp tế của phương Tây tại [[Sân bay Berlin Tempelhof]] trong Cuộc không vận Berlin, 1948
| image2 = Berlin Wall 1961-11-20.jpg
| caption2 = Công nhân xây dựng [[Đông Đức]]
| image3 = P-2H Neptune over Soviet ship Oct 1962.jpg
| caption3 = Một máy bay của [[Hải quân Hoa Kỳ]] che chở một máy bay chở hàng của [[Liên Xô]] trong cuộc [[khủng hoảng tên lửa Cuba]], năm 1962
Dòng 41:
| caption6 = [[Đám mây hình nấm]] của vụ thử hạt nhân [[Ivy Mike]], 1952; một trong hơn một ngàn bài kiểm tra như vậy được thực hiện bởi [[Hoa Kỳ]] trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1992
| image7 = Tsar photo11.jpg
| caption7 = Đám mây hình nấm của [[Tsar Bomba]] Liên Xô nhìn từ xa {{cvt|161|km}},
| image8 = Varyag1987.jpg
| caption8 = Máy bay trinh sát P-3A của [[Mỹ]] bay trên chiến hạm Varyag của [[Liên Xô]] năm 1987.
Dòng 49:
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
'''Chiến tranh Lạnh''' '''(Cold War)'''
Những nước tư bản phương Tây đã được dẫn dắt bởi
Ấn Độ, Indonesia, và Nam Tư đã dẫn đầu trong việc đẩy mạnh Phong trào Không liên kết, nhưng nó đã không bao giờ nhiều quyền theo đúng bản chất của nó. Liên Xô và Hoa Kì đã không bao giờ giao chiến trực tiếp trong đầy đủ cấp độ trận đánh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều được vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh toàn diện có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kì đã chiến đấu trong một cuộc chiến không được tuyên bố-thương vong cao trong Triều Tiên (1950-53) mà kết quả trong một sự bế tắc. Mỗi bên đã một một chiến lược hạt nhân mà đã làm nản lòng một cuộc tấn công bởi bên khác, về cơ bản rằng như một cuộc tấn công có thể dẫn tới sự phá hủy toàn bộ của kẻ tấn công- học thuyết của đảm bảo-phá hủy-lẫn nhau (MDA). Bên cạnh sự phát triển kho vũ khí hạt nhân của hai bên và triển khai lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh giành quyền thống trị được thể hiện thông qua các cuộc chiến ủy nhiệm trên toàn cầu, chiến tranh tâm lý, chiến dịch tuyên truyền lớn và gián điệp, xâm phạm sâu rộng, cạnh tranh thể thao các sự kiện và các cuộc thi công nghệ như Cuộc đua không gian.
Giai đoạn đầu của [[Chiến tranh Lạnh (1947-1953)]] đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc [[Thế chiến II]] (1945). [[Liên Xô]] đã củng cố sự kiểm soát của mình lên những quốc gia của [[khối Đông Âu]], trong khi [[Hoa kì|Hoa Kì]] đã bắt đầu một chiến lược ngăn chặn [[chủ nghĩa cộng sản]] trên toàn cầu, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia [[Đông Âu]] (ví dụ như ủng hộ phe chống cộng sản trong [[Nội chiến Hy Lạp]] và thành lập liên minh quân sự [[NATO]]). Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là một cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] trong [[Nội chiến Trung Quốc]] và sự bùng nổ của [[Chiến tranh Triều Tiên]] (1950-53), cuộc xung đột đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của [[Liên Xô|Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết]]) và US ([[Hoa Kỳ]]) đã cạnh tranh giành sự ảnh hưởng của mình tại những quốc gia [[Mỹ Latinh]] và những thuộc địa đang giành độc lập ở [[châu Phi]] và [[châu Á]]. [[Liên Xô]] đã dẹp tan cuộc [[Cách mạng Hungary (1956)|cách mạng Hungari]]. Sự mở rộng và leo thang đã xảy ra lần lượt nhiều cuộc khủng hoảng lớn như [[Khủng hoảng Kênh đào Suez|Khủng hoảng Suez (1956)]], [[Khủng hoảng Berlin 1961]] và [[Khủng hoảng tên lửa Cuba|Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962]], suýt nữa gây ra một cuộc [[chiến tranh hạt nhân]]. Trong thời gian đó, phong trào hòa bình quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở [[Nhật Bản]] từ năm 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm lan rộng sang châu Âu và Hoa Kỳ. Phong trào hòa bình, và đặc biệt là phong trào chống lại [[vũ khí hạt nhân]], đạt được tiến triển và được dân chúng ủng hộ nhiều hơn từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành, biểu tình, và nhiều hoạt động phi nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi [[phi hạt nhân hóa]] trên toàn cầu. Theo sau [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]], một giai đoạn mới đã bắt đầu đã cho thấy mối quan hệ phức tạp của sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Xô-Trung]], trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là [[Pháp]] đã rời khỏi [[NATO]]. USSR đã nghiền nát cuộc giải phóng Mùa xuân-Prague 1968 của [[Tiệp Khắc|Cộng hòa xã hội Séc]], trong khi Hoa Kỳ đã trải nghiệm sự hỗn loạn khủng khiếp ngay trong nước từ phong trào dân quyền và phản đối [[Chiến tranh Việt Nam]] (1955-1975), cuộc chiến đã kết thúc với thất bại của Hoa Kỳ và [[Việt Nam Cộng hòa|chế độ bản địa]] do [[Mỹ]] hậu thuẫn.▼
▲Giai đoạn đầu của
Những năm trong thập niên 1970, cả hai bên đã trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mối quan hệ quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn ''lắng dịu'' (de'tence) bao gồm việc "Đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược" và quan hệ cởi mở của Mỹ với [[Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc|Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập niên 70 với sự bắt đầu của [[Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan]] trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc [[Liên Xô]] bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của [[Nam Triều Tiên]] và Những đợt diễn tập quân sự ''Ablee Archer'' của NATO, cả hai đều ở năm 1983. Hoa Kì đã tăng ngoại giao, quân sự, và sức ép kinh tế lên Liên Xô, tại một thời điểm khi quốc gia này đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người biểu tình đã tụ tập ở [[Công viên Trung tâm]], [[New York (thành phố)|New York]] để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới [[Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa ''perestroika'' (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong [[Đảng Cộng sản Liên Xô]] trong suốt những năm của thập niên 80) và ''glasnost'' (cởi mở, 1985) và đã kết thúc sự dính líu của Liên Xô vào Afghanistan. Sức ép cho chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt Phần Lan. Trong thời gian đó [[Gorbachev]] từ chối sử dụng [[quân đội Liên Xô]] để củng cố những chế độ trì trệ thuộc [[Hiệp Ước Warsaw|Hiệp ước Warsaw]] như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng đã lật đổ tất cả những nhà nước thuộc khối XHCN của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị đình chỉ hoạt động sau một kế hoạch đảo chính chống Gorbachev sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Đến lượt điều này dẫn tới sự sụp đổ chính thức của USSR trong tháng 12 năm 1991, và sự sụp đổ của những nhà nước thuộc khối XHCN trong những quốc gia khác như [[Mông Cổ]], [[Campuchia]], và [[Nam Yemen]]. Vì vậy, [[Hoa kì|Hoa Kì]] trở thành siêu cường quốc duy nhất của thế giới.▼
▲Những năm
Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một di sản ý nghĩa. Nó thường được nói tới trong văn hóa đại chúng, đặc biệt trong những chủ đề truyền thông đặc trưng của hoạt động gián điệp (đặc biệt thành công quốc tế với quyển sách James Bond và những phim nhượng quyền) và sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa Liên Xô, Nga, và Hoa Kì trong những năm 2010s (bao gồm những đồng minh phía Tây) và sự tăng lên căng thẳng giữa quyền lực mới nổi Trung Quốc và U.S và đồng minh phía Tây của nó được nói tới như Chiến tranh lạnh lần 2 (tên tiếng Anh:Second Cold War).{{sfn|Syria crisis|2018}}
== Những nguồn gốc của thuật ngữ ==
Tại thời điểm kết thúc Thế chiến II, nhà văn Anh [[George Orwell]] đã sử dụng thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' (từ tiếng Anh: ''cold war''), như một khái niệm chung, trong tiểu luận của ông "You and the Atomic Bomb" (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19 tháng 10 năm 1945, trên tờ ''[[Tribune (tạp chí)|Tribune]]'' của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới cái bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, Orwell đã xem xét những tiên đoán của James Burnham về một thế giới bị phân cực, <ref>{{Chú thích sách| last=Kort| first =Michael| title= The Columbia Guide to the Cold War|publisher= Columbia University Press| date =2001|pages =3}}</ref> .<ref>{{Chú thích sách| last=Geiger| first =Till| title= Britain and the Economic Problem of the Cold War|publisher= Ashgate Publishing| date =2004|pages =7}}</ref>
{{quote|Xem xét thế giới như một tổng thể, nội dung cho nhiều thập kỉ không phải là hướng tới tình trạng vô chính phủ nhưng hướng tới tái áp dụng chế độ nô lệ...
Trong tờ ''The Observer'' xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng "... sau hội nghị Moskva vào cuối tháng 12, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Anh và Đế chế Anh."<ref>Orwell, George, ''The Observer'', 10 tháng 3 năm 1946</ref>
Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' <ref>""Cold War" – noun... (3) (initial capital letters) rivalry after World War II between the Soviet Union and its satellites and the democratic countries of the Western world, under the leadership of the United States." ''Dictionary'', unabridged, based on the Random House Dictionary, 2009</ref> để miêu ta chi tiết xung đột địa chính trị thời hậu chiến giữa Liên Xô và Hoa Kì đến từ một diễn văn của Bernard Baruch, một cố vấn quyền lực của những tổng thống Đảng dân chủ, <ref>{{Harvnb|Gaddis|2005|p=54}}</ref> Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo [[Herbert Bayard Swope]])<ref>{{Chú thích báo|first=William|last=Safire|year=2006|url=http://www.iht.com/articles/2006/10/01/news/edsafire.php|title=Islamofascism Anyone?|work=[[The New York Times]]|publisher=[[The New York Times Company]]|date=1 tháng 10 năm 2006|accessdate=25 tháng 12 năm 2008}}</ref> nói rằng, "Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh."<ref>'[http://www.history.com/this-day-in-history.do?action=Article&id=2639 Bernard Baruch coins the term "Cold War"]', history.com, 16 tháng 4 năm 1947. Truy cập 2 tháng 7 năm 2008.</ref> Nhà báo [[Walter Lippmann]] đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách ''The Cold War'' (1947). Khi được yêu cầu trong năm 1947 về nguồn gốc của thuật ngữ, Lippman đã tìm nguồn gốc nó tới một thuật ngữ tiếng Pháp từ những năm thập niên
== Bối cảnh ==
Hàng 130 ⟶ 134:
=== [[Liên Xô|Liên bang Xô Viết]] và sự lớn mạnh của [[chủ nghĩa cộng sản]] ===
Trong
Ở [[Albania]], những người ủng hộ
Ở [[Bulgaria]], chính phủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập từ năm [[1944]] đến [[1948]].
[[Tiệp Khắc]] có truyền thống chống lại
Cuối năm
[[Hồng Quân|Hồng quân Liên Xô]] cũng được lưu lại ở [[România]]. Năm 1945, vua của Romania bị buộc phải phong quyền thủ tướng cho một người cộng sản, hai năm sau nhà vua bị buộc phải thoái vị. Chế độ quân chủ của Romania chấm dứt
Cuối
[[Phần Lan]] được giữ độc lập với Liên Xô và ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.
[[Nam Tư]] cũng tương đối độc lập khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên quốc gia này vẫn dưới sự lãnh đạo của một chính quyền cộng sản với người lãnh đạo Josip Broz, hay còn được biết đến như là [[Josip Broz Tito|Tito]]. Tito chủ trương xây dựng
Tóm lại, sau
*[[Cộng hòa Nhân dân Albania]] (11 tháng 1 năm 1946)
Hàng 168 ⟶ 172:
Trong một bài diễn văn vào tháng 2 năm [[1946]]. Stalin khẳng định sự thành công của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản sẽ bị sụp đổ. Mặc dù sẽ phải trải qua nhiều năm trước khi có đủ lực lượng vũ trang để đối đầu với Mỹ, Liên Xô vẫn thúc đẩy sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách ủng hộ các phong trào cánh tả, các phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước Tây Âu.
Một tháng sau, để đáp trả, [[Winston Churchill]] (lúc này không còn là thủ tướng, nhưng vẫn là một nhân vật có tiếng nói mạnh mẽ trong chính trị Anh) đưa ra ý kiến phản bác lại Stalin, và sự thành lập "Bức màn Sắt" là một biểu tượng cho sự chia cắt giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau ở châu Âu lúc này.
== Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh ==
Hàng 299 ⟶ 303:
{{chính|Xâm lược vịnh con Lợn|Khủng hoảng tên lửa Cuba}}
Hy vọng lặp lại thành công
Chính phủ Liên Xô nắm lấy cơ hội từ cuộc xâm lược bất thành như một lý lẽ để thuyết phục Fidel cho phép quân đội Liên Xô đóng quân ở Cuba. Họ cũng quyết định đặt các [[Tên lửa tầm trung|tên lửa hạt nhân tầm trung]] ở Cuba, các tên lửa này đủ gần để có thể tấn công và hủy diệt lãnh thổ Hoa Kỳ. Liên Xô coi việc đặt các hệ thống tên lửa hạt nhân tại Cuba là một cách để đáp trả lại việc Mỹ bố trí các hệ thống tương tự tại Thổ Nhĩ Kỳ.
|