Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 53:
Những nước tư bản phương Tây đã được dẫn dắt bởi Hoa Kì, một liên bang-cộng hòa với một hệ thống hai đảng, cũng như những quốc gia First-World (chỉ những quốc gia mà liên kết chung với NATO hoặc chống lại Liên Xô trong Chiến Tranh lạnh) của Khối phương Tây mà nói chung tự do-dân chủ với một sự tự do báo chí và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị bện chặt với một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa nhỏ bé và những chế độ độc tài khác. Một vài nước tuyến đầu chính như Đông Duơng, Indonesia, và Congo vẫn là những thuộc địa phương Tây năm 1947. Liên Xô, mặt khác, tự tuyên bố là một quốc gia theo Chủ nghĩa Marx-Lenin đã áp đặt một chế độ cực quyền mà được lãnh đạo bởi một ủy ban nhỏ bé, bộ chính trị. Đảng cộng sản đã điều khiển toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phuơng khắp Second World (Second World chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc thân Liên Xô), bao gồm những thành viên Hiệp ước Warsaw và những vệ tinh khác. Kremlin đã tài trợ những đảng cộng sản khắp thế giới nhưng bị thách thức quyền lực bởi Cộng hòa nhân dân Trung Quốc của Mao Trạch Đông theo sau sự chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô vào khoảng những năm thập kỉ 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã đạt được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành Third World (những quốc gia trung lập )trong Chiến tranh Lạnh.{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}{{efn-ua|[https://www.economist.com/blogs/economist-explains/2013/11/economist-explains-16 "Where did banana republics get their name?" ''The Economist'', 21 November 2013]}}
 
Ấn Độ, Indonesia, và Nam Tư đã dẫn đầu trong việc đẩy mạnh Phong trào Không liên kết, nhưng nó đã không bao giờ nhiều quyền theo đúng bản chất của nó. Liên Xô và Hoa Kì đã không bao giờ giao chiến trực tiếp trong đầy đủ cấp độ trận đánh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều được vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh toàn diện có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kì đã chiến đấu trong một cuộc chiến không được tuyên bố-mà có sốthương vong cao trong Triều Tiên (1950-53) mà kết quả trong một sự bế tắc. Mỗi bên đã một một chiến lược hạt nhân mà đã làm nản lòng một cuộc tấn công bởi bên khác, về cơ bản rằng như một cuộc tấn công có thể dẫn tới sự phá hủy toàn bộ của kẻ tấn công- học thuyết của đảm bảo-phá hủy-lẫn nhau (MDA). Bên cạnh sự phát triển kho vũ khí hạt nhân của hai bên và triển khai lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh giành quyền thống trị được thể hiện thông qua các cuộc chiến ủy nhiệm trên toàn cầu, chiến tranh tâm lý, chiến dịch tuyên truyền lớn và gián điệp, xâmcấm phạm sâu rộngvận, cạnh tranh thể thaotại các sự kiện thể thao và các cuộc thicạnh tranh công nghệ như Cuộc đua Khôngkhông gian (Space Race).
 
Giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh (1947-1953) đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc Thế chiến II (1945). Liên Xô đã củng cố sự kiểm soát của nó lên những quốc gia của khối Đông Âu, trong khi Hoa Kì đã bắt đầu một chiến lược ngăn chặn toàn cầu để thử thách quyền lực Liên Xô, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia Đông Âu(ví dụ, ủng hộ phe chống-cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp) và tạo ra liên minh- NATO. Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là một cuộc khủng hoảng lớn đấu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của phe Cộng sản trong Nội chiến Trung Quốc và sự bùng nổ của Chiến tranh Triều Tiên (1950-53), cuộc xung đột đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết-Liên Xô) và US (Hoa Kì)đã cạnh tranh cho sự ảnh hưởng trong những quốc gia La-Tinh Nam Mĩ và những thuộc địa đang tìm cách dành độc lập ở châu Phi và châu Á. Liên Xô đã dẹp tan cuộc cách mạng Hungari-1961. Sự mở rộng và leo thang đã phát ra nhiều sự khủng hoảng, như Khủng hoảng Suez (1956), Khủng hoảng Berlin 1961, và Khủng hoảng tên lửa Cuban -1962, cái đã có thể gần nhất để hai bên tiến tới chiến tranh hạt nhân. Trong thời gian đó, phong trào-hòa bình- quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở Nhật Bản từ 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những sự thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm trong châu Âu và US. Phong trào hòa bình, và đặc biệt phong trào chống lại- hạt nhân, đạt được tiến triển và được dân chúng biết tới từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành phản đối rộng lớn, biểu tình, và nhiều hoạt động phi -nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi cho phi-hạt nhân toàn cầu. Theo sau Khủng hoảng tên lửa Cuban, một giai đoạn mới đã bắt đầu mà đã thấy mối quan hệ phức tạp chia rẽ Xô- Trung bên trong Đảng cộng sản, trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là Pháp, thể hiện sự độc lập lớn hơn về cách hành động. USSR đã nghiền nát chương trình giải phóng Mùa xuân-Prague 1968 trong Cộng hòa xã hội Séc, trong khi US đã trải nghiệm sự hỗn loạn bên trong từ phong trào dân quyền và chống đối tới Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), điều đã kết thúc với thất bại của Nam-Việt Nam do US hậu thuẫn.