Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Tại sao cứ phải lấy wiki Anh làm bản gốc? Bạn dịch ẩu như thế này thì cũng ngang với phá hoại thôi
Dòng 8:
| image_size =
| alt =
| caption = '''Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái:''' [[Bức tường Berlin]] trên nền [[Cổng Brandenburg]], [[CAT "C"]] ở [[Berlin]], [[Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc|quân đội ở Tiệp Khắc]], [[Jan Palach]], một cuộc biểu tình gần [[Bức tường Berlin]], ký kết thỏa thuận loại bỏ vũ khí hóa học của [[Mikhail Gorbachev]] và [[George Bush]].<br>
'''Dưới:''' Cuộc đối đầu của các khối vào năm 1959:
{{Collapsible list|title='''Bản đồ huyềnthế thoạigiới trong Chiến tranh Lạnh'''|titlestyle=font-weight:normal;background:transparent;text-align:left;|
{{Legend|#0000b0|Các nước thành viên NATO}}
{{Legend|#96b3f6|Các nước đồng minh khác của Hoa Kỳ}}
Dòng 31:
| caption1 = Người Đức xem các máy bay tiếp tế của phương Tây tại [[Sân bay Berlin Tempelhof]] trong Cuộc không vận Berlin, 1948
| image2 = Berlin Wall 1961-11-20.jpg
| caption2 = Công nhân xây dựng [[Đông Đức]] đang xây dựng [[Bức tường Berlin]], năm 1961
| image3 = P-2H Neptune over Soviet ship Oct 1962.jpg
| caption3 = Một máy bay của [[Hải quân Hoa Kỳ]] che chở một máy bay chở hàng của [[Liên Xô]] trong cuộc [[khủng hoảng tên lửa Cuba]], năm 1962
Dòng 41:
| caption6 = [[Đám mây hình nấm]] của vụ thử hạt nhân [[Ivy Mike]], 1952; một trong hơn một ngàn bài kiểm tra như vậy được thực hiện bởi [[Hoa Kỳ]] trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1992
| image7 = Tsar photo11.jpg
| caption7 = Đám mây hình nấm của [[Tsar Bomba]] Liên Xô nhìn từ xa {{cvt|161|km}}, Nămnăm 1961. Đó là loại [[vũ khí hạt nhân]] mạnh nhất từng được tạo ra và cũng vẫn là chất nổ mạnh nhất từng được kích nổ bởi con người.
| image8 = Varyag1987.jpg
| caption8 = Máy bay trinh sát P-3A của [[Mỹ]] bay trên chiến hạm Varyag của [[Liên Xô]] năm 1987.
Dòng 49:
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
 
'''Chiến tranh Lạnh''' '''(Cold War)''' là một thời kì của căng thẳng địa [[chính trị]] giữa [[Liên Xô]] với những quốc gia vệ tinh của nó ([[khối Đông Âu]]),[[Hoa Kỳ]] với những đồng minh của nó ([[Tây Âu|Khối phương Tây]]) sau [[Thế chiến II]]. Việc''Chiến biêntranh soạn lịch sử của cuộc xung đột đãLạnh'' bắt đầu khoảngtừ năm 1946 (năm bức điện báo với tựa đề- ''Long Telegram'' của nhà ngoại giao Hoa Kì [[George F. Kennan|George F.Kennan]] từ Moscow[[Moskva]] đã gắnđề chặtra một chính sách đối ngoại của [[Hoa Kỳ]] về việc ngăn chặn cái mà Hoanước này gọi là -chủ nghĩa bành trướng của [[Liên Xô]]) và năm 1947 (sự giới thiệu của [[Học thuyết Truman]]). ''Chiến tranh đãLạnh'' bắt đầu giảmkết leo thangthúc sau Cách mạng 1989. [[Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991Đông Âu]] (khi các nước cộng hòa của [[Liên bang xô-viết|Liên bang Xô Viếtviết]] đã tuyên bố độc lập) đã dẫn đến sự kết thúc hoàn toàn của Chiến tranh lạnh. Thuật ngữ ''lạnh'' được sử dụng bởi vì không có sự chiến đấu trực tiếp diện rộng giữa hai phecường quốc, nhưng họ đã ủng hộ những sựcuộc xung đột khu vựccác lớnnước được biết như là những- cuộc- [[chiến- tranh- ủy- nhiệm]] (proxy wars). Cuộc xung đột chia cắt tạm thời liên minh- thời chiến chống lại Đức quốc xã và những đồng minh của nó, để lại Liên Xô và Hoa Kì như hai siêu cường quốc với nền kinh tế rất lớn và sự khác nhau chính trị.
 
Những nước tư bản phương Tây đã được dẫn dắt bởi [[Hoa Kỳ]], mộtđều là những quốc gia liên bang-cộng hòa với một hệ thống haiđa đảng, cũng như những quốc gia ''First-World'' (chỉ những quốc gia liên kết chung với [[NATO]] hoặc chống lại [[Liên Xô]] trong Chiến Tranhtranh lạnh) của Khối phương Tây mà nói chung tự do-dân chủ với một sự tự do báo chí và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị bện chặt với một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa nhỏ bé và những chế độ độc tài khác. Một vài nước tuyến đầu chính như [[Đông Duơngdương|Đông Dương]], [[Indonesia,]][[Congo DR|Congo]] vẫn là những [[thuộc địa]] của phương Tây năm 1947. Liên Xô, mặt khác, tự tuyên bố mình là một quốc gia theo [[Chủ nghĩa Marx-Lenin]] đã áp đặtdụng mộthệ chếthống độchính cựctrị quyềnđộc đảng được lãnh đạo bởi một ủycấp banlãnh nhỏđạo bé,cao bộnhất là Bộ chính trị. ĐảngCác đảng cộng sản đãlãnh điều khiểnđạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phuơngphương khắp ''Second World'' (''Second World'' chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc thânđồng minh của [[Liên Xô]]), bao gồm những thành viên của [[Hiệp ước Warsaw]] và những vệquốc tinhgia khác theo [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Hệ thống XHCN]]. [[Điện Kremlin]] đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản trên khắp thế giới nhưng bị thách thức quyền lực bởi [[Cộng hòa nhân dân Trung QuốcHoa]] của [[Mao Trạch Đông]] theo sau đó là sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô]] vào khoảng những năm thập kỉ 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã đạtgiành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành ''Third World'' (những quốc gia trung lập ) trong Chiến tranh Lạnh.{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}{{efn-ua|[https://www.economist.com/blogs/economist-explains/2013/11/economist-explains-16 "Where did banana republics get their name?" ''The Economist'', 21 November 2013]}}
 
Giai đoạn đầu của [[Chiến tranh Lạnh (1947-1953)]] đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc [[Thế chiến II]] (1945). [[Liên Xô]] đã củng cố sự kiểm soát của mình lên những quốc gia của [[khối Đông Âu]], trong khi [[Hoa kì|Hoa Kì]] đã bắt đầu một chiến lược ngăn chặn toàn[[chủ cầunghĩa đểcộng thửsản]] tháchtrên quyềntoàn lực Liên Xôcầu, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia [[Đông Âu]] (ví dụ, như ủng hộ phe chống- cộng sản trong [[Nội chiến Hy Lạp)]]tạothành ralập liên minh- quân sự [[NATO]]). Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là một cuộc khủng hoảng lớn đấuđầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của phe[[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] trong [[Nội chiến Trung Quốc]] và sự bùng nổ của [[Chiến tranh Triều Tiên]] (1950-53), cuộc xung đột đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của [[Liên Xô|Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết-Liên Xô]]) và US ([[Hoa Kỳ]]) đã cạnh tranh chogiành sự ảnh hưởng trongcủa mình tại những quốc gia La-Tinh Nam[[Mỹ Latinh]] và những thuộc địa đang tìm cách dànhgiành độc lập ở [[châu Phi]][[châu Á]]. [[Liên Xô]] đã dẹp tan cuộc [[Cách mạng Hungary (1956)|cách mạng Hungari-1961]]. Sự mở rộng và leo thang đã phátxảy ra lần lượt nhiều sựcuộc khủng hoảng, lớn như [[Khủng hoảng Kênh đào Suez|Khủng hoảng Suez (1956)]], [[Khủng hoảng Berlin 1961,]][[Khủng hoảng tên lửa CubanCuba|Khủng -1962,hoảng cáitên đãlửa Cuba thể1962]], gầnsuýt nhấtnữa đểgây haira bênmột tiến tớicuộc [[chiến tranh hạt nhân]]. Trong thời gian đó, phong trào- hòa bình- quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở [[Nhật Bản]] từ năm 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những sựvụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm tronglan rộng sang châu Âu và USHoa Kỳ. Phong trào hòa bình, và đặc biệt phong trào chống lại- [[vũ khí hạt nhân]], đạt được tiến triển và được dân chúng biếtủng tớihộ nhiều hơn từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành phản đối rộng lớn, biểu tình, và nhiều hoạt động phi -nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi cho[[phi phi-hạt nhân hóa]] trên toàn cầu. Theo sau [[Khủng hoảng tên lửa CubanCuba]], một giai đoạn mới đã bắt đầu đã cho thấy mối quan hệ phức tạp của sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Xô- Trung bên trong Đảng cộng sản]], trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là [[Pháp,]] thểđã hiệnrời sựkhỏi độc lập lớn hơn về cách hành động[[NATO]]. USSR đã nghiền nát chương trìnhcuộc giải phóng Mùa xuân-Prague 1968 trongcủa [[Tiệp Khắc|Cộng hòa xã hội Séc]], trong khi USHoa Kỳ đã trải nghiệm sự hỗn loạn bênkhủng khiếp ngay trong nước từ phong trào dân quyền và chốngphản đối tới [[Chiến tranh Việt Nam]] (1955-1975), điềucuộc chiến đã kết thúc với thất bại của Nam-Hoa Kỳ và [[Việt Nam Cộng hòa|chế độ bản địa]] do US[[Mỹ]] hậu thuẫn.
Ấn Độ, Indonesia, và Nam Tư đã dẫn đầu trong việc đẩy mạnh Phong trào Không liên kết, nhưng nó đã không bao giờ nhiều quyền theo đúng bản chất của nó. Liên Xô và Hoa Kì đã không bao giờ giao chiến trực tiếp trong đầy đủ cấp độ trận đánh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều được vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh toàn diện có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kì đã chiến đấu trong một cuộc chiến không được tuyên bố-mà có sốthương vong cao trong Triều Tiên (1950-53) mà kết quả trong một sự bế tắc. Mỗi bên đã một một chiến lược hạt nhân mà đã làm nản lòng một cuộc tấn công bởi bên khác, về cơ bản rằng như một cuộc tấn công có thể dẫn tới sự phá hủy toàn bộ của kẻ tấn công- học thuyết của đảm bảo-phá hủy-lẫn nhau (MDA). Bên cạnh sự phát triển kho vũ khí hạt nhân của hai bên và triển khai lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh giành quyền thống trị được thể hiện thông qua các cuộc chiến ủy nhiệm trên toàn cầu, chiến tranh tâm lý, chiến dịch tuyên truyền lớn và gián điệp, cấm vận, cạnh tranh tại các sự kiện thể thao và các cuộc cạnh tranh công nghệ như Cuộc đua không gian (Space Race).
 
Những năm trong thập kỉniên 1970, cả hai bên đã trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mộtmối quan hệ thống quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn ''lắng dịu'' (de'tence) bao đãgồm thấyviệc "Đàm phán- giới hạn- vũ khí- chiến lược" và quan hệ cởi mở của USMỹ với PRC ([[Cộng hòa nhânNhân dân Trung Quốc|Cộng )hòa nhân dân Trung Hoa]] như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập kỉniên 70 với sự bắt đầu của [[Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan]] trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc [[Liên Xô]] bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của [[Nam Triều Tiên]] và Những đợt diễn tập quân sự ''Ablee Archer'' của NATO, cả hai đều ở năm 1983. Hoa Kì đã tăng ngoại giao, quân sự, và sức ép kinh tế lên Liên Xô, tại một thời điểm khi quốc gia cộng sảnnày đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người biểu tình đã tụ tập ở [[Công viên Trung tâm]], [[New York (thành phố)|New York]] để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ khí-trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới [[Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa ''perestroika'' (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong [[Đảng Cộng sản Liên Xô]] trong suốt những năm của thập kỉniên 80) và ''glasnost'' (cởi mở, 1985) và đã kết thúc sự dính líu của Liên Xô vào Afghanistan. Sức ép cho chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt Phần Lan. Trong thời gian đó [[Gorbachev]] từ chối sử dụng [[quân đội Liên Xô]] để củng cố những chế độ trì trệ thuộc [[Hiệp Ước Warsaw|Hiệp ước Warsaw]] như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng đã lật đổ -một cách hòa bình- tất cả những chếnhà độnước cộngthuộc sảnkhối XHCN của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị cấmđình chỉ hoạt động sau một mưukế toanhoạch lậtđảo đổchính chống Gorbachev sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Đến lượt điều này dẫn tới sự sụp đổ chính thức của USSR trong tháng 12/ năm 1991, và sự sụp đổ của những chếnhà độnước cộngthuộc sảnkhối XHCN trong những quốc gia khác như [[Mông Cổ]], Cambodia[[Campuchia]], và [[Nam Yemen]]. Vì vậy, [[Hoa kì|Hoa Kì]] vẫntrở như mộtthành siêu cường quốc duy nhất của thế giới.
Giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh (1947-1953) đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc Thế chiến II (1945). Liên Xô đã củng cố sự kiểm soát của nó lên những quốc gia của khối Đông Âu, trong khi Hoa Kì đã bắt đầu một chiến lược ngăn chặn toàn cầu để thử thách quyền lực Liên Xô, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia Đông Âu(ví dụ, ủng hộ phe chống-cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp) và tạo ra liên minh- NATO. Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là một cuộc khủng hoảng lớn đấu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của phe Cộng sản trong Nội chiến Trung Quốc và sự bùng nổ của Chiến tranh Triều Tiên (1950-53), cuộc xung đột đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết-Liên Xô) và US (Hoa Kì)đã cạnh tranh cho sự ảnh hưởng trong những quốc gia La-Tinh Nam Mĩ và những thuộc địa đang tìm cách dành độc lập ở châu Phi và châu Á. Liên Xô đã dẹp tan cuộc cách mạng Hungari-1961. Sự mở rộng và leo thang đã phát ra nhiều sự khủng hoảng, như Khủng hoảng Suez (1956), Khủng hoảng Berlin 1961, và Khủng hoảng tên lửa Cuban -1962, cái đã có thể gần nhất để hai bên tiến tới chiến tranh hạt nhân. Trong thời gian đó, phong trào-hòa bình- quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở Nhật Bản từ 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những sự thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm trong châu Âu và US. Phong trào hòa bình, và đặc biệt phong trào chống lại- hạt nhân, đạt được tiến triển và được dân chúng biết tới từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành phản đối rộng lớn, biểu tình, và nhiều hoạt động phi -nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi cho phi-hạt nhân toàn cầu. Theo sau Khủng hoảng tên lửa Cuban, một giai đoạn mới đã bắt đầu mà đã thấy mối quan hệ phức tạp chia rẽ Xô- Trung bên trong Đảng cộng sản, trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là Pháp, thể hiện sự độc lập lớn hơn về cách hành động. USSR đã nghiền nát chương trình giải phóng Mùa xuân-Prague 1968 trong Cộng hòa xã hội Séc, trong khi US đã trải nghiệm sự hỗn loạn bên trong từ phong trào dân quyền và chống đối tới Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), điều đã kết thúc với thất bại của Nam-Việt Nam do US hậu thuẫn.
 
Những năm thập kỉ 1970, cả hai bên đã trở nên quan tâm trong việc xem xét để tạo ra một hệ thống quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn ''lắng dịu'' (de'tence) mà đã thấy Đàm phán-giới hạn-vũ khí- chiến lược và quan hệ cởi mở của US với PRC (Cộng hòa nhân dân Trung Quốc ) như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập kỉ với sự bắt đầu của Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc Liên Xô bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của Nam Triều Tiên và Những đợt diễn tập quân sự ''Ablee Archer'' của NATO, cả hai đều ở năm 1983. Hoa Kì đã tăng ngoại giao, quân sự, và sức ép kinh tế lên Liên Xô, tại một thời điểm khi quốc gia cộng sản đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 1982, một triệu người biểu tình đã tụ tập ở Công viên Trung tâm, New York để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ khí-chiến tranh Lạnh và đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới Mikhail Gorbachev đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa ''perestroika'' (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong Đảng Cộng sản Liên Xô trong suốt những năm thập kỉ 80) và ''glasnost'' (cởi mở, 1985) và đã kết thúc sự dính líu của Liên Xô vào Afghanistan. Sức ép cho chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt Phần Lan. Trong thời gian đó Gorbachev từ chối sử dụng quân đội Liên Xô để củng cố những chế độ trì trệ thuộc Hiệp ước Warsaw như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng mà lật đổ -một cách hòa bình- tất cả những chế độ cộng sản của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị cấm sau một mưu toan lật đổ sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Đến lượt điều này dẫn tới sự sụp đổ chính thức của USSR trong tháng 12/1991, và sự sụp đổ của những chế độ cộng sản trong những quốc gia khác như Mông Cổ, Cambodia, và Nam Yemen. Hoa Kì vẫn như một siêu cường quốc duy nhất của thế giới.
 
Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một di sản ý nghĩa. Nó thường được nói tới trong văn hóa đại chúng, đặc biệt trong những chủ đề truyền thông đặc trưng của hoạt động gián điệp (đặc biệt thành công quốc tế với quyển sách James Bond và những phim nhượng quyền) và sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa Liên Xô, Nga, và Hoa Kì trong những năm sau 2010 (bao gồm những đồng minh phía Tây) và sự tăng lên căng thẳng giữa quyền lực mới nổi Trung Quốc và U.S và đồng minh phía Tây của nó được nói tới như Chiến tranh lạnh lần 2 (tên tiếng Anh:Second Cold War).{{sfn|Syria crisis|2018}}
 
== Những nguồn gốc của thuật ngữ ==
 
Tại thời điểm kết thúc Thế chiến II, nhà văn Anh [[George Orwell]] đã sử dụng thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' (từ tiếng Anh: ''cold war''), như một khái niệm chung, trong tiểu luận của ông "You and the Atomic Bomb" (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19 tháng 10 năm 1945, trên tờ ''[[Tribune (tạp chí)|Tribune]]'' của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới cái bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, Orwell đã xem xét những tiên đoán của James Burnham về một thế giới bị phân cực, <ref>{{Chú thích sách| last=Kort| first =Michael| title= The Columbia Guide to the Cold War|publisher= Columbia University Press| date =2001|pages =3}}</ref> .<ref>{{Chú thích sách| last=Geiger| first =Till| title= Britain and the Economic Problem of the Cold War|publisher= Ashgate Publishing| date =2004|pages =7}}</ref>
 
{{quote|Xem xét thế giới như một tổng thể, nội dung cho nhiều thập kỉ không phải là hướng tới tình trạng vô chính phủ nhưng hướng tới tái áp dụng chế độ nô lệ... lí thuyết của James Burnham đã thảo luận nhiều nhưng một vài người đã không xem xét sự ẩn ý tư tưởng của nó- rằng là, một loại thế- giới -quan, một loại đức tin, và cấu trúc xã hội mà có thể thịnh hành trong một quốc gia đã không bị xâm lược ngay và trong một quốc gia vĩnh cửu của ''chiến tranh lạnh'' với những hàng xóm của nó.{{sfn|Orwell|1945}}}}
 
Trong tờ ''The Observer'' xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng "... sau hội nghị Moskva vào cuối tháng 12, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Anh và Đế chế Anh."<ref>Orwell, George, ''The Observer'', 10 tháng 3 năm 1946</ref>
 
Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' <ref>""Cold War" – noun... (3) (initial capital letters) rivalry after World War II between the Soviet Union and its satellites and the democratic countries of the Western world, under the leadership of the United States." ''Dictionary'', unabridged, based on the Random House Dictionary, 2009</ref> để miêu ta chi tiết xung đột địa chính trị thời hậu chiến giữa Liên Xô và Hoa Kì đến từ một diễn văn của Bernard Baruch, một cố vấn quyền lực của những tổng thống Đảng dân chủ, <ref>{{Harvnb|Gaddis|2005|p=54}}</ref> Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo [[Herbert Bayard Swope]])<ref>{{Chú thích báo|first=William|last=Safire|year=2006|url=http://www.iht.com/articles/2006/10/01/news/edsafire.php|title=Islamofascism Anyone?|work=[[The New York Times]]|publisher=[[The New York Times Company]]|date=1 tháng 10 năm 2006|accessdate=25 tháng 12 năm 2008}}</ref> nói rằng, "Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh."<ref>'[http://www.history.com/this-day-in-history.do?action=Article&id=2639 Bernard Baruch coins the term "Cold War"]', history.com, 16 tháng 4 năm 1947. Truy cập 2 tháng 7 năm 2008.</ref> Nhà báo [[Walter Lippmann]] đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách ''The Cold War'' (1947). Khi được yêu cầu trong năm 1947 về nguồn gốc của thuật ngữ, Lippman đã tìm nguồn gốc nó tới một thuật ngữ tiếng Pháp từ những năm thập niên 1930s1930, ''la guerre froid''<ref>{{Chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=Ydc3AAAAIAAJ&q=walter+lippmann+cold+war&dq=walter+lippmann+cold+war&pgis=1|author=Lippmann, Walter|title=Cold War|accessdate = ngày 2 tháng 9 năm 2008 |publisher=Harper|year=1947}}</ref>
 
== Bối cảnh ==
Hàng 134 ⟶ 130:
 
=== [[Liên Xô|Liên bang Xô Viết]] và sự lớn mạnh của [[chủ nghĩa cộng sản]] ===
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], [[Hồng quân Liên Xô]] giúp các nước [[Đông Âu]] thoát khỏi quân phát xít, đồng thời chính quyền theo đường lối [[cộng sản chủ nghĩa]] cũng được thiết lập tại các nước này.
 
;====Albania và Bulgaria====
Ở [[Albania]], những người ủng hộ [[chủ nghĩa cộng sản]] bị loại trừ vào những năm chiến tranh, sau này được [[Stalin]] thiết lập lại. Khi bầu cử diễn ra các năm sau đó, những nhà lãnh đạo chống cộng bị thất bại.
 
Ở [[Bulgaria]], chính phủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập từ năm [[1944]] đến [[1948]].
 
;====Tiệp Khắc====
[[Tiệp Khắc]] có truyền thống chống lại [[chủ nghĩa cộng sản]] từ trước thế chiến, nhưng việc bị [[Anh]] - [[Pháp]] bánbỏ đứngrơi khiến người Tiệp Khắc quay sang ủng hộ [[Liên Xô]]. Trong cuộc bầu cử tự do năm [[1946]], các nhà lãnh đạo đảng cộng sản giành được 40% tổng số phiếu, đủ để thành lập chính phủ mới. Sau này các đảng viên lên thay thế nhiều vị trí trong bộ Công an, cùng với sự hỗ trợ của Liên Xô, họ tổ chức các cuộc mít-tinh, đình công v.v. Đến năm [[1948]], Tiệp Khắc trở thành một nước có chính phủ cộng sản chủ nghĩa.
 
;====Hungary và Romania====
Cuối năm [[1945]], tại [[Hungary]] các người cộng sản thất bại trong cuộc bầu cử, các lực lượng Xô Viết vẫn được giữ lại. Họ yêu cầu đưa đảng cộng sản lên nắm bộ Công an. Việc bắt giữ những phần tử chống cộng có thể đã giúp các người cộng sản lên nắm chính quyền vào cuộc tái bầu cử năm [[1947]].
 
[[Hồng Quân|Hồng quân Liên Xô]] cũng được lưu lại ở [[România]]. Năm 1945, vua của Romania bị buộc phải phong quyền thủ tướng cho một người cộng sản, hai năm sau nhà vua bị buộc phải thoái vị. Chế độ quân chủ của Romania chấm dứt
 
;====Tây Đức và Đông Đức====
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, [[Đồng minhMinh]] đã quyết định việc chia cắt nước [[Đức]] sau chiến tranh. Nước [[Đức]] được chia thành 4 vùng chiếm đóng. Vào tháng 7 năm 1948, ba nước [[Mỹ]], [[Anh]][[Pháp]] hợp nhất ba vùng chiếm đóng của họ và thành lập nên nước nước [[Tây Đức|Cộng hòa Liên bang Đức]] đi theo con đường [[tư bản chủ nghĩa]] và thân phương Tây. Vào ngày 7 tháng 10 vùng Liên Xô chiếm đóng ở phía đông thành lập nước [[Cộng hòa Dân chủ Đức]], đi theo con đường [[xã hôihội chủ nghĩa]] và trở thành một nhà nước vệ tinh của Liên Xô.
 
;====Phần Lan và Nam Tư====
[[Phần Lan]] được giữ độc lập với Liên Xô và ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1948, Phần Lan ký hiệp ước với Liên Xô, cam kết không gia nhập bất kỳ liên minh quân sự nào để chống Liên Xô.
 
[[Nam Tư]] cũng tương đối độc lập khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên quốc gia này vẫn dưới sự lãnh đạo của một chính quyền cộng sản với người lãnh đạo Josip Broz, hay còn được biết đến như là [[Josip Broz Tito|Tito]]. Tito chủ trương xây dựng [[chủ nghĩa xã hội]] không dựa vào Liên Xô và không áp dụng mô hình kinh tế của Liên Xô giống như các nước Đông Âu khác. Vào năm 1948, [[Stalin]] muốn lật đổ Tito nhưng thất bại và chấp nhận sự lãnh đạo của Tito.
 
Tóm lại, sau [[chiến tranh thế giới thứ 2]], một loạt các nhà nước [[xã hội chủ nghĩa]] thân [[Liên Xô]] đã được thành lập ở [[Đông Âu]], bao gồm:
 
*[[Cộng hòa Nhân dân Albania]] (11 tháng 1 năm 1946)
Hàng 172 ⟶ 168:
Trong một bài diễn văn vào tháng 2 năm [[1946]]. Stalin khẳng định sự thành công của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản sẽ bị sụp đổ. Mặc dù sẽ phải trải qua nhiều năm trước khi có đủ lực lượng vũ trang để đối đầu với Mỹ, Liên Xô vẫn thúc đẩy sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách ủng hộ các phong trào cánh tả, các phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước Tây Âu.
 
Một tháng sau, để đáp trả, [[Winston Churchill]] (lúc này không còn là thủ tướng, nhưng vẫn là một nhân vật có tiếng nói mạnh mẽ trong chính trị Anh) đưa ra ý kiến phản bác lại Stalin, và sự thành lập "Bức màn Sắt" là một biểu tượng cho sự chia cắt giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau ở châu Âu lúc này. [[Churchill]] cũng kêu gọi [[Mỹ]] tiếp tục ngăn chặn [[Stalin]] lôi kéo các nước vàokhác bên kiachâu củaÂu theo chủ nghĩa cộng sản, điều mà ông gọi là bức màn, nơi chủ nghĩa cộng sản đang ngự trị ở phía Đông châu Âu.
 
== Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh ==
Hàng 303 ⟶ 299:
{{chính|Xâm lược vịnh con Lợn|Khủng hoảng tên lửa Cuba}}
 
Hy vọng lặp lại thành công của [[Guatemala]][[Iran]] năm 1961, [[CIA,]] viện dẫn cuộc di tản quy mô lớn tới Hoa Kỳ sau khi [[Fidel Castro|Castro]] lên nắm quyền, đã huấn luyện và trang bị một nhóm vũ trang là người Cuba lưu vong đổ bộ xuống [[Vịnh con Lợn]], nơi họ tìm cách tạo ra một cuộc nổi dậy chống chế độ Castro. Không quân Mỹ cũng tham gia ném bom trong sự kiện này, làm khoảng 2000 - 4000 thường dân Cuba thiệt mạng. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã thất bại nặng nề. Sau đó, Casto công khai tuyên bố ông là một người [[Marxist]] - [[Chủ nghĩa LeniLenin|Leninist]] và tạo lập Cuba trở thành [[Nhà nước cộng sản|nhà nước Cộng sản]] đầu tiên tại châu Mỹ và tiếp tục quốc hữu hoá các ngành công nghiệp chính của đất nước.
 
Chính phủ Liên Xô nắm lấy cơ hội từ cuộc xâm lược bất thành như một lý lẽ để thuyết phục Fidel cho phép quân đội Liên Xô đóng quân ở Cuba. Họ cũng quyết định đặt các [[Tên lửa tầm trung|tên lửa hạt nhân tầm trung]] ở Cuba, các tên lửa này đủ gần để có thể tấn công và hủy diệt lãnh thổ Hoa Kỳ. Liên Xô coi việc đặt các hệ thống tên lửa hạt nhân tại Cuba là một cách để đáp trả lại việc Mỹ bố trí các hệ thống tương tự tại Thổ Nhĩ Kỳ.