Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gia Khánh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 46:
'''Thanh Nhân Tông''' ([[chữ Hán]]: 清仁宗, [[13 tháng 11]], năm [[1760]] – [[2 tháng 9]], năm [[1820]]), Hãn hiệu '''Tát Y Thập Nhã Nhĩ Đồ Y Lỗ Cách Nhĩ Đồ hãn''' (萨伊什雅尔图伊鲁格尔图汗; Сайшаалт ерөөлт хаан), [[Tây Tạng]] tôn hiệu '''Văn Thù Hoàng đế''' (文殊皇帝), là vị [[Hoàng đế]] thứ 7 của [[nhà Thanh]] trong [[lịch sử Trung Quốc]] [[Mãn Châu]]. Ông cai trị từ năm [[1796]] đến năm [[1820]] và chỉ dùng [[niên hiệu]] '''Gia Khánh''' (嘉慶) nên ông còn được gọi là '''Gia Khánh Đế''' (嘉慶帝).
Năm Càn Long thứ 38 ([[1773]]), Càn Long Đế bí mật chọn ông làm [[Hoàng thái tử]]. Tiếp vào năm Càn Long thứ 60 ([[1796]]), Càn Long Đế do không muốn thời gian trị vì của mình lớn hơn Hoàng tổ phụ [[Thanh Thánh Tổ]] Khang Hi Đế mà mình ngưỡng mộ, đã [[thiện nhượng]] cho Gia Khánh Đế để lên làm [[Thái thượng hoàng|Thái Thượng hoàng]], nhưng vẫn tiếp tục nắm quyền quyết định các việc lớn, sử gọi là '''Huấn chính''' (训政) biện pháp. Trong thời gian trị vì của mình, Gia Khánh Đế đã có những hành động
== Thân thế ==
Dòng 77:
Vào năm Gia Khánh thứ 8 ([[1803]]), phát sinh cuộc nội loạn của [[Trần Đức]] xông vào Tử Cấm Thành. Và năm Gia Khánh thứ 18 ([[1813]]), lại phát sinh loạn bởi [[Thiên Lý giáo]] (天理教) đột nhập vào hoàng cung. Những người trực tiếp tham gia bị xử tử, hàng trăm người khác bị lưu đày sau hai vụ ám sát này.
Triều đại của Gia Khánh Đế tuy tiễu trừ Hòa Thân, thi hành tiết kiệm, cải tổ bè đảng, song vấn đề tham ô không
Nha phiến lưu nhập Trung Quốc, cũng như một kho bạc của đế quốc trống rỗng. Gia Khánh Đế tham gia vào việc bình định và dập tắt các cuộc nổi loạn. Ông nỗ lực để đưa Trung Quốc trở lại sự thịnh vượng và quyền lực từng có của thế kỷ 18. Tuy nhiên, một phần do dòng chảy bạc lớn từ nước này khi thanh toán cho thuốc phiện nhập lậu vào Trung Quốc từ [[Ấn Độ thuộc Anh]], nền kinh tế tiếp tục suy giảm. Đối với ngoại giao với [[Việt Nam]], Gia Khánh Đế từ chối yêu cầu của [[Vua Gia Long]] đổi tên quốc gia của mình thành Nam Việt. Thay vào đó, ông đổi tên thành Việt Nam. Sách ''[[Đại Nam thực lục]]'' của Gia Long chứa các thư tín ngoại giao về việc đặt tên.
|