Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gia Khánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 71:
Càn Long Đế sau khi thiện nhượng đã lên làm [[Thái thượng hoàng|Thái Thượng hoàng]], cư ngụ tại [[Ninh Thọ cung]], cung điện mà [[Khang Hi Đế]] dành riêng cho [[Hiếu Huệ Chương hoàng hậu|Nhân Hiến Hoàng thái hậu]], nay được Càn Long Đế tu sửa quy mô hơn nhiều, còn Gia Khánh Đế tạm cư [[Dục Khánh cung]] (毓庆宫). Trong ba năm sau đó, Gia Khánh Đế chỉ làm Hoàng đế trên danh nghĩa, vì Càn Long Thái Thượng hoàng đế vẫn là người ra quyết định chính; phàm công văn quan trọng, tuyển bổ quan lại đại thần, Gia Khánh Đế phê duyệt xong đều phải đưa cho Thái Thượng hoàng xem xét, sau khi Thượng hoàng đồng ý mới quyết định. Đó gọi là ''"Huấn chính"'' biện pháp.
 
Năm Gia Khánh thứ 4 ([[1799]]), Thái Thượng hoàng băng hà, Gia Khánh Đế mới làm lễ lên ngôi và chính thức nắm triều chính, khi ấy ông đã 40 tuổi. Sau đó, Gia Khánh Đế lập tức xử [[Hòa Thân]] tội danh tham nhũng và lạm dụng chức quyền, Hòa Thân bị tước hết quan tước và ban cho tự sát. Con dâu của Hòa Thân là [[Cố Luân Hoà Hiếu Công chúa]], em gái Gia Khánh Đế, được miễn tội và ban cho một số tài sản của Hòa Thân.
 
Vào năm Gia Khánh thứ 8 ([[1803]]), phát sinh cuộc nội loạn của [[Trần Đức]] xông vào Tử Cấm Thành. Và năm Gia Khánh thứ 18 ([[1813]]), lại phát sinh loạn bởi [[Thiên Lý giáo]] (天理教) đột nhập vào hoàng cung. Những người trực tiếp tham gia bị Gia Khánh Đế xử tử, hàng trăm người khác bị lưu đày sau hai vụ ám sát này.
Sau khi Càn Long Đế băng hà, Gia Khánh Đế nắm triều chính và xử tội [[Hòa Thân]]. Với tội danh tham nhũng và lạm dụng chức quyền, Hòa Thân bị tước hết quan tước và ban cho tự sát. Con dâu của Hòa Thân, em gái của Gia Khánh Đế, là [[Cố Luân Hoà Hiếu Công chúa]] được miễn tội và ban cho một số tài sản của Hòa Thân.
 
Triều đại của Gia Khánh Đế tuy tiễu trừ được Hòa Thân, thi hành tiết kiệm, cải tổ bè đảng, song vấn đề tham ô không hề khởi sắc mà thậm chí còn nặng nề thêm. Trong suốt thời kì Gia Khánh Đế trị vì, bạo loạn xã hội bởi [[Bạch Liên giáo]] (1796-1804) và [[Thiên Lý giáo]] (1795-1806) đã làm tình hình trở nên nghiêm trọng. Bộ luật Đại Thanh bao gồm một đạo luật có tiêu đề ''"Những điều cấm liên quan đến các Phù thủy và Pháp sư"''. Năm [[1811]], một điều khoản đã được thêm vào nó với tham chiếu đến Cơ đốc giáo. Nó được sửa đổi vào năm 1815 và 1817, định cư ở dạng cuối cùng vào năm 1839 dưới thời [[Đạo Quang]], và bị bãi bỏ vào năm [[1870]] dưới thời [[Đồng Trị]]. Bộ luật kết án tử hình người châu Âu vì truyền bá đạo [[Công giáo]] giữa người Hán và người Mãn Châu. Kitô hữu, những người không ăn năn hối cải đã được gửi đến các khu vực theo [[Hồi giáo]] ở [[Tân Cương]], để được trao làm nô lệ cho các nhà lãnh đạo và các nhà thờ Hồi giáo.
Vào năm Gia Khánh thứ 8 ([[1803]]), phát sinh cuộc nội loạn của [[Trần Đức]] xông vào Tử Cấm Thành. Và năm Gia Khánh thứ 18 ([[1813]]), lại phát sinh loạn bởi [[Thiên Lý giáo]] (天理教) đột nhập vào hoàng cung. Những người trực tiếp tham gia bị xử tử, hàng trăm người khác bị lưu đày sau hai vụ ám sát này.
 
Triều đại của Gia Khánh Đế tuy tiễu trừ Hòa Thân, thi hành tiết kiệm, cải tổ bè đảng, song vấn đề tham ô không hề khởi sắc mà thậm chí còn nặng nề thêm. Trong suốt thời kì Gia Khánh Đế trị vì, bạo loạn xã hội bởi [[Bạch Liên giáo]] (1796-1804) và [[Thiên Lý giáo]] (1795-1806) đã làm tình hình trở nên nghiêm trọng. Bộ luật Đại Thanh bao gồm một đạo luật có tiêu đề ''"Những điều cấm liên quan đến các Phù thủy và Pháp sư"''. Năm [[1811]], một điều khoản đã được thêm vào nó với tham chiếu đến Cơ đốc giáo. Nó được sửa đổi vào năm 1815 và 1817, định cư ở dạng cuối cùng vào năm 1839 dưới thời [[Đạo Quang]], và bị bãi bỏ vào năm [[1870]] dưới thời [[Đồng Trị]]. Bộ luật kết án tử hình người châu Âu vì truyền bá đạo [[Công giáo]] giữa người Hán và người Mãn Châu. Kitô hữu, những người không ăn năn hối cải đã được gửi đến các khu vực theo [[Hồi giáo]] ở [[Tân Cương]], để được trao làm nô lệ cho các nhà lãnh đạo và các nhà thờ Hồi giáo.
 
Nha phiến lưu nhập Trung Quốc, cũng như một kho bạc của đế quốc trống rỗng. Gia Khánh Đế tham gia vào việc bình định và dập tắt các cuộc nổi loạn. Ông nỗ lực để đưa Trung Quốc trở lại sự thịnh vượng và quyền lực từng có của thế kỷ 18. Tuy nhiên, một phần do dòng chảy bạc lớn từ nước này khi thanh toán cho thuốc phiện nhập lậu vào Trung Quốc từ [[Ấn Độ thuộc Anh]], nền kinh tế tiếp tục suy giảm. Đối với ngoại giao với [[Việt Nam]], Gia Khánh Đế từ chối yêu cầu của [[Vua Gia Long]] đổi tên quốc gia của mình thành Nam Việt. Thay vào đó, ông đổi tên thành Việt Nam. Sách ''[[Đại Nam thực lục]]'' của Gia Long chứa các thư tín ngoại giao về việc đặt tên.