Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Phần mở đầu như thế này là đủ ngắn gọn, viết như thế kia quá dông dài mà lủng củng, toàn lỗi dịch máy (kể cả BQV Tuanminh dịch vẫn chưa được mượt cho lắm). Cứ giữ nguyên thế này là tốt nhất
Dòng 8:
| image_size =
| alt =
| caption = '''Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái:''' [[Bức tường Berlin]] trên nền [[Cổng Brandenburg]], [[CAT "C"]] ở [[Berlin]], [[Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc|quân đội ở Tiệp Khắc]], [[Jan Palach]], một cuộc biểu tình gần [[Bức tường Berlin]], ký kết thỏa thuận loại bỏ vũ khí hóa học của [[Mikhail Gorbachev]] và [[George Bush]].<br>
'''Dưới:''' Cuộc đối đầu của các khối vào năm 1959:
{{Collapsible list|title='''Bản đồ thếhuyền giới trong Chiến tranh Lạnhthoại'''|titlestyle=font-weight:normal;background:transparent;text-align:left;|
{{Legend|#0000b0|Các nước thành viên NATO}}
{{Legend|#96b3f6|Các nước đồng minh khác của Hoa Kỳ}}
Dòng 18:
{{Legend|#b9b9b9|Các quốc gia không liên kết}}
}}
| date = [[5 tháng 3]] năm [[1946]] — [[21 tháng 11]] năm [[1990]] / [[Liên Xô tan rã|26 tháng 12]] năm [[Liên Xô tan rã|1991]]
| place = Toàn thế giới
| coordinates = <!--Use the {{coord}} template -->
| map_type =
| map_relief =
| map_size =
| map_marksize =
| map_caption =
| map_label =
| territory =
| result = Chiến thắng của khối tư bản
*[[Kế hoạch Marshall]]
*[[Nội chiến Trung Quốc]]
*[[Nội chiến Hy Lạp]]
*[[Chiến tranh Đông Dương|Pháp xâm chiếm Đông Dương]]
*[[Chiến tranh Triều Tiên]]
*[[Khủng hoảng Kênh đào Suez|Anh xâm chiếm Ai Cập]]
*[[Chiến tranh Việt Nam]]
*[[Sự kiện Vịnh Con Lợn|Cuộc xâm chiếm của Mỹ vào Cuba]]
*[[Nội chiến Angola]]
*Bắt đầu [[Xung đột Ả Rập-Israel]]
*[[Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)|Chiến tranh Afghanistan]]
''và những cuộc chiến khác''
* sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu
* sự tan rã của [[Liên Xô]]
* [[Nam Tư]] tan rã
| status = Sự sụp đổ của [[Khối phía Đông|khối phương Đông]] và [[Liên Xô tan rã|Liên Xô]]
| combatants_header =
| combatant1 = {{flagcountry|United States|1960|size=23px}}
----
{{Collapsible list
|bullets = yes
|title = {{Flagcountry|NATO|size=23px}}
|{{flagcountry|Iceland|size=23px}}
|{{flagcountry|Belgium|size=23px}}
|{{flagcountry|Canada|1964|size=23px}}
|{{flagcountry|Denmark|size=23px}}
|{{flagcountry|France|1830|size=23px}}
|{{flagcountry|West Germany|size=23px}}
|{{flagcountry|Italy|size=23px}}
|{{flagcountry|Luxembourg|size=23px}}
|{{flagcountry|Netherlands|size=23px}}
|{{flagcountry|Norway|size=23px}}
|{{flagcountry|Greece|size=23px}}
|{{flagcountry|Portugal|size=23px}}
|{{flagcountry|Francoist Spain|size=23px}}
|{{flagcountry|Turkey|size=23px}}
|{{flagcountry|United Kingdom|size=23px}}
| '''Các đồng minh của Hoa Kỳ'''
| {{flagcountry|South Korea|1984|size=23px}}
| {{flagcountry|Nam Phi|1928|size=23px}}
}}
{{Collapsible list
|bullets = yes
|title = {{flagicon image|Flag_of_SEATO.svg}} [[Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á|SEATO]]
|{{flagcountry|Pakistan|size=23px}}
|{{flagcountry|New Zealand|size=23px}}
|{{flagcountry|Philippines|size=23px}}
|{{flagcountry|Thailand|size=23px}}
|{{flagcountry|Australia|size=23px}}
| '''Các quốc gia được SEATO bảo vệ'''
| {{flagcountry|South Vietnam|size=23px}}
| {{flagcountry|Kingdom of Laos|size=23px}}
|{{flagicon image|Flag_of_the_Khmer_Republic.svg}}[[Cộng hòa Khmer]]
 
}}
| combatant2 = {{flagcountry|Soviet Union|size=22px}}
----
{{Collapsible list
|bullets = yes
|title = {{flagicon image|Warsaw Pact Logo.svg}} [[Khối Warszawa]]
| {{flagcountry|People's Socialist Republic of Albania|size=22px}}
| {{flagcountry|People's Republic of Bulgaria|size=22px}}
| {{flagcountry|Czechoslovak Socialist Republic|size=22px}}
| {{flagcountry|East Germany}}
| {{flagcountry|Hungarian People's Republic|size=22px}}
| {{flagcountry|Polish People's Republic|size=22px}}
| {{flagcountry|Socialist Republic of Romania|size=22px}}
| '''Các đồng minh của Liên Xô'''
| {{flagcountry|North Korea|size=22px}}
| {{flagcountry|Syria|1963|size=22px}}
| {{flagcountry|Ba'athist Iraq|1963|size=22px}}
| {{flagcountry|Ai Cập|1972|size=22px}}
| {{flagcountry|China|size=22px}}
|[[Tập tin:Flag of Democratic Kampuchea.svg|22px]] [[Khmer Đỏ]]
|{{flagdeco|Laos}} [[Pathet Lào]]
}}
{{Collapsible list
|bullets = yes
|title = {{flagicon image|Flag of Comecon.svg}} [[Hội đồng Tương trợ Kinh tế|SEV]]
| {{flagicon|Mongolia|1945|size=22px}} [[Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ|Mông Cổ]]
| {{flagcountry|North Vietnam|size=22px}}
| {{flagcountry|Cộng hòa Cuba (1902–59)||size=22px}}
}}
| combatant3 =
| commander1 =
{{Collapsible list
|bullets =
| {{flagicon|USA|1912}} [[Harry S. Truman]]<br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[Dwight David Eisenhower]]<br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[John F. Kennedy]] [[Vụ ám sát John F. Kennedy|†]]<br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[Lyndon B. Johnson]] <br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[Richard Nixon]]<br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[Ronald Reagan]]<br />
| {{flagicon|USA|1912}} [[George H.W. Bush]]<br />
| {{flagdeco|Đệ Nhất Đại Hàn Dân Quốc|1949|size=23px}} [[Syngman Rhee]]
| {{flagdeco|First Republic of Korea|1949|size=23px}} [[Chung Il-kwon]]
| {{flagdeco|First Republic of Korea|1949|size=23px}} [[Paik Sun-yup]]
| {{flagdeco|First Republic of Korea|1949|size=23px}} [[Shin Sung-mo]]
| {{flagicon image|Flag of South Vietnam.svg}} [[Nguyễn Văn Thiệu]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Ngô Đình Diệm]] {{KIA|Vụ bắt giữ và sát hại Ngô Đình Diệm}}
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Ngô Đình Nhu]] {{KIA|Vụ bắt giữ và sát hại Ngô Đình Diệm}}
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Nguyễn Cao Kỳ]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Cao Văn Viên]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Dương Văn Minh]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Trần Thiện Khiêm]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Trần Văn Hương]]
| {{flagicon|South Vietnam}} [[Đỗ Cao Trí]]{{KIA}}
| ''và những người khác...''
}}
| commander2 =
{{flagicon|USSR|1936}} [[Iosif Vissarionovich Stalin]]<br />
{{flagicon|USSR}} [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov]]<br/>
{{flagicon|USSR}} [[Leonid Ilyich Brezhnev]]<br />
{{flagicon|USSR}} [[Mikhail Sergeyevich Gorbachyov]]<br />
{{flagicon|Trung Quốc}} [[Mao Trạch Đông]]<br />
{{flagicon|North Vietnam}} [[Hồ Chí Minh]]<br />
{{flagicon image|CPKbanner.svg}} [[Pol Pot]]<br />
{{flagicon image|Flag of North Korea.svg}} [[Kim Nhật Thành]]<br />
{{flagicon|Cuba}} [[Fidel Castro]]<br />{{flagdeco|North Korea|1948|size=23px}} [[Pak Hon-yong]]<br />
{{flagdeco|North Korea|1948|size=23px}} [[Choi Yong-kun]]<br />
{{flagdeco|North Korea|1948|size=23px}} [[Kim Chaek]]{{KIA}}<br />''và những người khác...''
| commander3 =
| units1 =
| units2 =
| units3 =
| strength1 =
| strength2 =
| strength3 =
| casualties1 =
| casualties2 =
| casualties3 = '''[[Chiến tranh Triều Tiên]]:'''<br>2,5 triệu thiệt mạng<br>
| notes =
| campaignbox =
Hàng 31 ⟶ 172:
| caption1 = Người Đức xem các máy bay tiếp tế của phương Tây tại [[Sân bay Berlin Tempelhof]] trong Cuộc không vận Berlin, 1948
| image2 = Berlin Wall 1961-11-20.jpg
| caption2 = Công nhân xây dựng [[Đông Đức]] đang xây dựng [[Bức tường Berlin]], năm 1961
| image3 = P-2H Neptune over Soviet ship Oct 1962.jpg
| caption3 = Một máy bay của [[Hải quân Hoa Kỳ]] che chở một máy bay chở hàng của [[Liên Xô]] trong cuộc [[khủng hoảng tên lửa Cuba]], năm 1962
Hàng 41 ⟶ 182:
| caption6 = [[Đám mây hình nấm]] của vụ thử hạt nhân [[Ivy Mike]], 1952; một trong hơn một ngàn bài kiểm tra như vậy được thực hiện bởi [[Hoa Kỳ]] trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1992
| image7 = Tsar photo11.jpg
| caption7 = Đám mây hình nấm của [[Tsar Bomba]] Liên Xô nhìn từ xa {{cvt|161|km}}, nămNăm 1961. Đó là loại [[vũ khí hạt nhân]] mạnh nhất từng được tạo ra và cũng vẫn là chất nổ mạnh nhất từng được kích nổ bởi con người.
| image8 = Varyag1987.jpg
| caption8 = Máy bay trinh sát P-3A của [[Mỹ]] bay trên chiến hạm Varyag của [[Liên Xô]] năm 1987.
Hàng 49 ⟶ 190:
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
 
'''Chiến tranh Lạnh''' (1946–1989) là tình trạng tiếp nối xung đột [[chính trị]], căng thẳng [[quân sự]], và [[Cạnh tranh (kinh doanh)|cạnh tranh kinh tế]] tồn tại sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] (1939–1945), chủ yếu giữa [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]] và [[Khối Warszawa|các quốc gia đồng minh]] của họ, với các [[cường quốc]] thuộc [[thế giới phương Tây]], gồm cả [[Hoa Kỳ]]. Dù các lực lượng tham gia chủ yếu không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc [[chạy đua vũ trang]] [[Vũ khí hạt nhân|hạt nhân]], tình báo, [[chiến tranh ủy nhiệm]], tuyên truyền, và cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc [[chạy đua vào không gian|chạy đua không gian]].
'''Chiến tranh Lạnh''' '''(Cold War)''' là một thời kì căng thẳng địa [[chính trị]] giữa [[Liên Xô]] với những quốc gia vệ tinh ([[khối Đông Âu]]) và [[Hoa Kỳ]] với những đồng minh ([[Tây Âu|Khối phương Tây]]) sau [[Thế chiến II]]. ''Chiến tranh Lạnh'' bắt đầu từ năm 1946 (năm bức điện báo với tựa đề ''Long Telegram'' của nhà ngoại giao Hoa Kì [[George F. Kennan|George F.Kennan]] từ [[Moskva]] đã đề ra một chính sách đối ngoại của [[Hoa Kỳ]] về việc ngăn chặn cái mà nước này gọi là chủ nghĩa bành trướng của [[Liên Xô]]) và năm 1947 ([[Học thuyết Truman]]). ''Chiến tranh Lạnh'' bắt đầu kết thúc sau [[Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu]] (khi các nước cộng hòa của [[Liên bang xô-viết|Liên bang Xô viết]] đã tuyên bố độc lập) và dẫn đến sự kết thúc hoàn toàn của Chiến tranh lạnh. Thuật ngữ ''lạnh'' được sử dụng bởi vì không có sự chiến đấu trực tiếp diện rộng giữa hai cường quốc, nhưng họ đã ủng hộ những cuộc xung đột ở các nước được biết như là những cuộc [[chiến tranh ủy nhiệm]] (proxy wars). Cuộc xung đột chia cắt tạm thời liên minh thời chiến chống lại [[Đức quốc xã]] và những đồng minh của nó, để lại Liên Xô và Hoa Kì như hai siêu cường quốc với nền kinh tế và quan điểm chính trị khác nhau rõ rệt.
 
Những nước tư bản phương Tây được dẫn dắt bởi [[Hoa Kỳ]], một quốc gia theo thể chế cộng hòa với hệ thống chính trị đa đảng, cũng như những quốc gia ''First-World'' (chỉ những quốc gia liên kết chung với [[NATO]] hoặc chống lại [[Liên Xô]] trong Chiến tranh lạnh). Đại đa số các quốc gia ''First-World'' là các nước cộng hòa hoặc quân chủ lập hiến với hệ thống chính trị đa đảng và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị bị ràng buộc chặt với một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa nhỏ bé và những chế độ độc tài khác, hầu hết trong số đó là các thuộc địa cũ của Khối phương Tây{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}. Liên Xô tự tuyên bố mình là một quốc gia theo [[Chủ nghĩa Marx-Lenin]] đã áp dụng hệ thống chính trị độc đảng được lãnh đạo bởi một cấp lãnh đạo cao nhất là Bộ chính trị. Các đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phương khắp ''Second World'' (''Second World'' chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc đồng minh của [[Liên Xô]]), bao gồm những thành viên của [[Hiệp ước Warsaw]] và những quốc gia khác theo [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Hệ thống XHCN]]. [[Điện Kremlin]] đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản trên khắp thế giới nhưng bị thách thức quyền lực bởi [[Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] của [[Mao Trạch Đông]] theo sau đó là sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô]] vào khoảng những năm 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã giành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành ''Third World'' (những quốc gia trung lập) trong Chiến tranh Lạnh.{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}{{efn-ua|[https://www.economist.com/blogs/economist-explains/2013/11/economist-explains-16 "Where did banana republics get their name?" ''The Economist'', 21 November 2013]}}
 
Ấn Độ, Indonesia và Nam Tư đã đi đầu trong việc thúc đẩy tính trung lập với [[Phong trào không liên kết|Phong trào Không liên kết]], nhưng nó không bao giờ có nhiều quyền lực theo đúng nghĩa của nó. Liên Xô và Hoa Kỳ không bao giờ tham gia trực tiếp vào chiến đấu vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều được vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một [[Chiến tranh hạt nhân|cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện]] có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kỳ đã chiến đấu trong một cuộc [[Chiến tranh Triều Tiên|chiến tranh]] thương vong cao không tuyên chiến [[Chiến tranh Triều Tiên|tại Triều Tiên]] (1950-53) mà kết thúc với bế tắc. Mỗi bên đều có một chiến lược hạt nhân ngăn cản một cuộc tấn công của phía bên kia, trên cơ sở một cuộc tấn công như vậy sẽ dẫn đến sự hủy diệt hoàn toàn của kẻ tấn công - Học thuyết về sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo (MAD). Bên cạnh những [[Cuộc đua vũ khí hạt nhân|phát triển kho vũ khí hạt nhân của cả hai bên]], và triển khai của họ về lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh cho vị trí thống trị được thể hiện qua cuộc chiến ủy nhiệm trên toàn cầu, [[chiến tranh tâm lý]], chiến dịch tuyên truyền lớn và [[Hoạt động gián điệp thời Chiến tranh Lạnh|hoạt động gián điệp]], cấm vận gây ảnh hưởng sâu rộng, sự ganh đua các môn thể thao ở các sự kiện và các cuộc thi công nghệ như [[Chạy đua vào không gian|Cuộc chạy đua vào không gian]].
 
Giai đoạn đầu của [[Chiến tranh Lạnh (1947-1953)]] đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc [[Thế chiến II]] (1945). [[Liên Xô]] đã củng cố sự kiểm soát của mình lên những quốc gia của [[khối Đông Âu]], trong khi [[Hoa kì|Hoa Kì]] đã bắt đầu một chiến lược ngăn chặn [[chủ nghĩa cộng sản]] trên toàn cầu, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia [[Đông Âu]] (ví dụ như ủng hộ phe chống cộng sản trong [[Nội chiến Hy Lạp]] và thành lập liên minh quân sự [[NATO]]). Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] trong [[Nội chiến Trung Quốc]] và sự bùng nổ của [[Chiến tranh Triều Tiên]] (1950-53), cuộc xung đột đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của [[Liên Xô|Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết]]) và US ([[Hoa Kỳ]]) đã cạnh tranh giành sự ảnh hưởng của mình tại những quốc gia [[Mỹ Latinh]] và những thuộc địa đang giành độc lập ở [[châu Phi]] và [[châu Á]]. [[Liên Xô]] đã dẹp tan cuộc [[Cách mạng Hungary (1956)|cách mạng Hungari]]. Sự mở rộng và leo thang đã xảy ra lần lượt nhiều cuộc khủng hoảng lớn như [[Khủng hoảng Kênh đào Suez|Khủng hoảng Suez (1956)]], [[Khủng hoảng Berlin 1961]] và [[Khủng hoảng tên lửa Cuba|Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962]], suýt nữa gây ra một cuộc [[chiến tranh hạt nhân]]. Trong thời gian đó, phong trào hòa bình quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở [[Nhật Bản]] từ năm 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm lan rộng sang châu Âu và Hoa Kỳ. Phong trào hòa bình, và đặc biệt là phong trào chống lại [[vũ khí hạt nhân]], đạt được tiến triển và được dân chúng ủng hộ nhiều hơn từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành, biểu tình, và nhiều hoạt động phi nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi [[phi hạt nhân hóa]] trên toàn cầu. Theo sau [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]], một giai đoạn mới đã bắt đầu đã cho thấy mối quan hệ phức tạp của sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Xô-Trung]], trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là [[Pháp]] đã rời khỏi [[NATO]]. USSR đã nghiền nát cuộc giải phóng Mùa xuân-Prague 1968 của [[Tiệp Khắc|Cộng hòa xã hội Séc]], trong khi Hoa Kỳ đã trải nghiệm sự hỗn loạn khủng khiếp ngay trong nước từ phong trào dân quyền và phản đối [[Chiến tranh Việt Nam]] (1955-1975), cuộc chiến đã kết thúc với thất bại của Hoa Kỳ và [[Việt Nam Cộng hòa|chế độ bản địa]] do [[Mỹ]] hậu thuẫn.
 
Dù là [[khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|các đồng minh]] chống lại [[Phe Trục]], [[Liên Xô]], [[Hoa Kỳ]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] và [[Pháp]] đã không đồng thuận trong và sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], đặc biệt về việc thiết lập thế giới thời hậu chiến. Khi cuộc chiến kết thúc, họ chiếm hầu hết châu Âu, với việc Hoa Kỳ và Liên Xô là các lực lượng quân sự mạnh nhất.
Những năm trong thập niên 1970, cả hai bên đã trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mối quan hệ quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn ''lắng dịu'' (de'tence) bao gồm việc "Đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược" và quan hệ cởi mở của Mỹ với [[Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc|Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập niên 70 với sự bắt đầu của [[Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan]] trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc [[Liên Xô]] bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của [[Nam Triều Tiên]] và những đợt diễn tập quân sự ''Ablee Archer'' của [[NATO]], cả hai đều ở năm 1983. [[Hoa Kỳ]] đã tăng sức ép kinh tế, ngoại giao, quân sự lên [[Liên Xô]], tại một thời điểm khi quốc gia này đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người [[biểu tình]] đã tụ tập ở [[Công viên Trung tâm]], [[New York (thành phố)|New York]] để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới [[Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa ''perestroika'' (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong [[Đảng Cộng sản Liên Xô]] trong suốt những năm của thập niên 80) và ''glasnost'' (cởi mở, 1985) và đã kết thúc sự dính líu của Liên Xô vào Afghanistan. Sức ép cho chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt Phần Lan. Trong thời gian đó [[Gorbachev]] từ chối sử dụng [[quân đội Liên Xô]] để củng cố những chế độ trì trệ thuộc [[Hiệp Ước Warsaw|Hiệp ước Warsaw]] như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng đã lật đổ tất cả những nhà nước thuộc khối XHCN của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị đình chỉ hoạt động sau một kế hoạch đảo chính chống Gorbachev sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Đến lượt điều này dẫn tới sự sụp đổ chính thức của USSR trong tháng 12 năm 1991, và sự sụp đổ của những nhà nước thuộc khối XHCN trong những quốc gia khác như [[Mông Cổ]], [[Campuchia]], và [[Nam Yemen]]. Vì vậy, [[Hoa kì|Hoa Kì]] trở thành siêu cường quốc duy nhất của thế giới.
 
Liên Xô lập ra [[Đông Âu|Khối Đông Âu]] với các quốc gia Đông Âu mà họ giải phóng, sáp nhập một số trở thành [[Các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết|Các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết]] và duy trì các quốc gia khác như nước đồng minh của mình, một số nước trong số đó sau này được củng cố vào [[Khối Warszawa|Khối Hiệp ước Warsaw]] (1955–1991). Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây Âu thì lập ra [[chính sách ngăn chặn]] [[chủ nghĩa cộng sản]] như là chính sách ngoại giao chủ yếu của họ, và lập ra các liên minh (ví dụ [[NATO]], 1949) cho mục đích đó.
Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một di sản ý nghĩa. Nó thường được nói tới trong văn hóa đại chúng, đặc biệt trong những chủ đề truyền thông đặc trưng của hoạt động gián điệp (đặc biệt thành công quốc tế với quyển sách James Bond và những phim nhượng quyền) và sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa Liên Xô là Nga, và Hoa Kì trong những năm sau 2010 (bao gồm những đồng minh phía Tây) và sự tăng lên căng thẳng giữa quyền lực mới nổi Trung Quốc và U.S và đồng minh phía Tây của nó được nói tới như Chiến tranh lạnh lần 2 (tên tiếng Anh:Second Cold War).{{sfn|Syria crisis|2018}}
 
Nhiều quốc gia trong số đó cũng tham gia vào [[Kế hoạch Marshall|kế hoạch tái thiết châu Âu]], đặc biệt là Tây Đức, vốn bị Liên Xô phản đối. Ở những nơi khác, tại [[Mỹ Latinh]] và [[Đông Nam Á]], Liên Xô ủng hộ các cuộc [[cách mạng giải phóng dân tộc]], nhưng bị nhiều nước phương tây ủng hộ [[chủ nghĩa thực dân]] phản đối; một số nước tìm cách hạ thấp dập tắt các phong trào đòi độc lập này, với những kết quả khác nhau. Một số nước liên kết với NATO và Khối hiệp ước Warsaw, tuy thế các khối của những quốc gia không liên kết cũng xuất hiện.
== Những nguồn gốc của thuật ngữ ==
 
Cuộc chiến tranh Lạnh có đặc điểm ở những giai đoạn khá yên tĩnh và những giai đoạn căng thẳng lên cao trong quan hệ quốc tế – cuộc [[Cuộc phong tỏa Berlin|Phong toả Berlin]] (1948–1949), [[Chiến tranh Triều Tiên]] (1950–1953), [[Khủng hoảng Berlin 1961]], các cuộc [[Xung đột Ả Rập-Israel]] (1948-1982), các cuộc [[Chiến tranh Đông Dương]] (1945–1975), [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] (1962), [[Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)|Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan]] (1979–1989), và những cuộc tập trận [[Able Archer 83]] của NATO vào tháng 11 năm 1983. Cả hai phía đã tìm cách làm giảm các căng thẳng chính trị và tránh một cuộc tấn công quân sự trực tiếp, vốn dường như sẽ dẫn tới một sự [[tiêu diệt có đảm bảo từ hai phía]] với các loại [[vũ khí hạt nhân]].
Tại thời điểm kết thúc Thế chiến II, nhà văn Anh [[George Orwell]] đã sử dụng thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' (từ tiếng Anh: ''cold war''), như một khái niệm chung, trong tiểu luận của ông "You and the Atomic Bomb" (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19 tháng 10 năm 1945, trên tờ ''[[Tribune (tạp chí)|Tribune]]'' của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới cái bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, Orwell đã xem xét những tiên đoán của James Burnham về một thế giới bị phân cực<ref>{{Chú thích sách| last=Kort| first =Michael| title= The Columbia Guide to the Cold War|publisher= Columbia University Press| date =2001|pages =3}}</ref><ref>{{Chú thích sách| last=Geiger| first =Till| title= Britain and the Economic Problem of the Cold War|publisher= Ashgate Publishing| date =2004|pages =7}}</ref>:
 
Trong [[thập niên 1980]], Hoa Kỳ tăng cường sức ép ngoại giao, quân sự và kinh tế chống lại Liên Xô, vốn đang ở tình trạng [[Trì trệ Brezhnev|trì trệ kinh tế]]. Sau đó, Tổng thống Liên Xô [[Mikhail Sergeyevich Gorbachyov|Mikhail Gorbachev]] đưa ra những cuộc cải cách ''[[perestroika]]'' ("tái cơ cấu" 1987) và ''[[glasnost]]'' ("mở cửa", khoảng năm 1985). [[Lịch sử Liên bang Xô viết (1985-1991)|Liên bang Xô viết sụp đổ]] năm 1991, khiến Hoa Kỳ còn lại là cường quốc quân sự có vị thế thống trị. Nhà nước kế thừa Liên Xô là [[Liên bang Nga]] vẫn có sức mạnh khoa học kỹ thuật và quân sự đáng gờm, nhưng không đủ mạnh về kinh tế như Liên Xô trước đây. Tuy nhiên, tới đầu [[Thế kỷ 21|thế kỷ XXI]], một cường quốc khác là [[Trung Quốc]] ngày càng trở nên mạnh mẽ về kinh tế, khoa học, quân sự và được dự báo sẽ sớm trở thành một đối thủ mới cạnh tranh toàn diện với Mỹ. {{Cần dẫn nguồn}}
{{quote|Xem xét thế giới như một tổng thể, nội dung cho nhiều thập kỉ không phải là hướng tới tình trạng vô chính phủ nhưng hướng tới tái áp dụng chế độ nô lệ... lí thuyết của James Burnham đã thảo luận nhiều nhưng một vài người đã không xem xét sự ẩn ý tư tưởng của nó rằng là, một loại thế giới quan, một loại đức tin, và cấu trúc xã hội mà có thể thịnh hành trong một quốc gia đã không bị xâm lược ngay và trong một quốc gia vĩnh cửu của ''chiến tranh lạnh'' với những hàng xóm của nó.{{sfn|Orwell|1945}}}}
 
== Nguồn gốc thuật ngữ ==
Trong tờ ''The Observer'' xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng "... sau hội nghị Moskva vào cuối tháng 12, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Mỹ và Đế chế Anh."<ref>Orwell, George, ''The Observer'', 10 tháng 3 năm 1946</ref>
Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' <ref>""Cold War" – noun... (3) (initial capital letters) rivalry after World War II between the Soviet Union and its satellites and the democratic countries of the Western world, under the leadership of the United States." ''Dictionary'', unabridged, based on the Random House Dictionary, 2009</ref> miêu tả những căng thẳng [[địa chính trị]] thời hậu Thế chiến II giữa Liên bang Xô viết và các Đồng minh Tây Âu của họ được gán cho [[Bernard Baruch]], một nhà tài chính và là cố vấn tổng thống Hoa Kỳ.<ref>{{Harvnb|Gaddis|2005|p=54}}</ref> Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo [[Herbert Bayard Swope]])<ref>{{Chú thích báo|first=William|last=Safire|year=2006|url=http://www.iht.com/articles/2006/10/01/news/edsafire.php|title=Islamofascism Anyone?|work=[[The New York Times]]|publisher=[[The New York Times Company]]|date=1 tháng 10 năm 2006|accessdate=25 tháng 12 năm 2008}}</ref> nói rằng, "Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh."<ref>'[http://www.history.com/this-day-in-history.do?action=Article&id=2639 Bernard Baruch coins the term "Cold War"]', history.com, 16 tháng 4 năm 1947. Truy cập 2 tháng 7 năm 2008.</ref> Nhà báo [[Walter Lippmann]] đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách ''Cold War'' (1947).<ref>{{Chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=Ydc3AAAAIAAJ&q=walter+lippmann+cold+war&dq=walter+lippmann+cold+war&pgis=1|author=Lippmann, Walter|title=Cold War|accessdate = ngày 2 tháng 9 năm 2008 |publisher=Harper|year=1947}}</ref>
 
Trước đó, trong cuộc chiến, [[George Orwell]] đã sử dụng thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' trong tiểu luận "You and the Atomic Bomb" (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19 tháng 10 năm 1945, trên tờ ''[[Tribune (tạp chí)|Tribune]]'' của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, ông đã cảnh báo về một "nền hoà bình không có hoà bình", mà ông gọi là một cuộc "chiến tranh lạnh" thường trực,<ref>{{Chú thích sách| last=Kort| first =Michael| title= The Columbia Guide to the Cold War|publisher= Columbia University Press| date =2001|pages =3}}</ref> Orwell đã trực tiếp đề cập tới cuộc chiến tranh đó như là một sự đối đầu ý thức hệ giữa Liên bang Xô viết và các cường quốc phương Tây.<ref>{{Chú thích sách| last=Geiger| first =Till| title= Britain and the Economic Problem of the Cold War|publisher= Ashgate Publishing| date =2004|pages =7}}</ref> Hơn nữa, trong tờ ''The Observer'' xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng "... sau hội nghị Moskva vào tháng 12 vừa rồi, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Anh và Đế chế Anh."<ref>Orwell, George, ''The Observer'', 10 tháng 3 năm 1946</ref>
Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ ''Chiến tranh Lạnh'' <ref>""Cold War" – noun... (3) (initial capital letters) rivalry after World War II between the Soviet Union and its satellites and the democratic countries of the Western world, under the leadership of the United States." ''Dictionary'', unabridged, based on the Random House Dictionary, 2009</ref> để miêu ta chi tiết xung đột địa chính trị thời hậu chiến giữa Liên Xô và Hoa Kì đến từ một diễn văn của Bernard Baruch, một cố vấn quyền lực của những tổng thống Đảng dân chủ,<ref>{{Harvnb|Gaddis|2005|p=54}}</ref> Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo [[Herbert Bayard Swope]])<ref>{{Chú thích báo|first=William|last=Safire|year=2006|url=http://www.iht.com/articles/2006/10/01/news/edsafire.php|title=Islamofascism Anyone?|work=[[The New York Times]]|publisher=[[The New York Times Company]]|date=1 tháng 10 năm 2006|accessdate=25 tháng 12 năm 2008}}</ref> nói rằng, "Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh."<ref>'[http://www.history.com/this-day-in-history.do?action=Article&id=2639 Bernard Baruch coins the term "Cold War"]', history.com, 16 tháng 4 năm 1947. Truy cập 2 tháng 7 năm 2008.</ref> Nhà báo [[Walter Lippmann]] đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách ''The Cold War'' (1947). Khi được yêu cầu trong năm 1947 về nguồn gốc của thuật ngữ, Lippman đã tìm nguồn gốc nó tới một thuật ngữ tiếng Pháp từ những năm thập niên 1930, ''la guerre froid''<ref>{{Chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=Ydc3AAAAIAAJ&q=walter+lippmann+cold+war&dq=walter+lippmann+cold+war&pgis=1|author=Lippmann, Walter|title=Cold War|accessdate = ngày 2 tháng 9 năm 2008 |publisher=Harper|year=1947}}</ref>
 
== Bối cảnh ==
Hàng 134 ⟶ 270:
 
=== [[Liên Xô|Liên bang Xô Viết]] và sự lớn mạnh của [[chủ nghĩa cộng sản]] ===
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], [[Hồng quân Liên Xô]] giúp các nước [[Đông Âu]] thoát khỏi quân phát xít, đồng thời chính quyền theo đường lối [[cộng sản chủ nghĩa]] cũng được thiết lập tại các nước này.
 
====;Albania và Bulgaria====
Ở [[Albania]], những người ủng hộ [[chủ nghĩa cộng sản]] bị loại trừ vào những năm chiến tranh, sau này được [[Stalin]] thiết lập lại. Khi bầu cử diễn ra các năm sau đó, những nhà lãnh đạo chống cộng bị thất bại.
 
Ở [[Bulgaria]], chính phủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập từ năm [[1944]] đến [[1948]].
 
====;Tiệp Khắc====
[[Tiệp Khắc]] có truyền thống chống lại [[chủ nghĩa cộng sản]] từ trước thế chiến, nhưng việc bị [[Anh]] - [[Pháp]] bỏbán rơiđứng khiến người Tiệp Khắc quay sang ủng hộ [[Liên Xô]]. Trong cuộc bầu cử tự do năm [[1946]], các nhà lãnh đạo đảng cộng sản giành được 40% tổng số phiếu, đủ để thành lập chính phủ mới. Sau này các đảng viên lên thay thế nhiều vị trí trong bộ Công an, cùng với sự hỗ trợ của Liên Xô, họ tổ chức các cuộc mít-tinh, đình công v.v. Đến năm [[1948]], Tiệp Khắc trở thành một nước có chính phủ cộng sản chủ nghĩa.
 
====;Hungary và Romania====
Cuối năm [[1945]], tại [[Hungary]] các người cộng sản thất bại trong cuộc bầu cử, các lực lượng Xô Viết vẫn được giữ lại. Họ yêu cầu đưa đảng cộng sản lên nắm bộ Công an. Việc bắt giữ những phần tử chống cộng có thể đã giúp các người cộng sản lên nắm chính quyền vào cuộc tái bầu cử năm [[1947]].
 
[[Hồng Quân|Hồng quân Liên Xô]] cũng được lưu lại ở [[România]]. Năm 1945, vua của Romania bị buộc phải phong quyền thủ tướng cho một người cộng sản, hai năm sau nhà vua bị buộc phải thoái vị. Chế độ quân chủ của Romania chấm dứt
 
====;Tây Đức và Đông Đức====
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, [[Đồng Minh]]minh đã quyết định việc chia cắt nước [[Đức]] sau chiến tranh. Nước [[Đức]] được chia thành 4 vùng chiếm đóng. Vào tháng 7 năm 1948, ba nước [[Mỹ]], [[Anh]][[Pháp]] hợp nhất ba vùng chiếm đóng của họ và thành lập nên nước nước [[Tây Đức|Cộng hòa Liên bang Đức]] đi theo con đường [[tư bản chủ nghĩa]] và thân phương Tây. Vào ngày 7 tháng 10 vùng Liên Xô chiếm đóng ở phía đông thành lập nước [[Cộng hòa Dân chủ Đức]], đi theo con đường [[xã hộihôi chủ nghĩa]] và trở thành một nhà nước vệ tinh của Liên Xô.
 
====;Phần Lan và Nam Tư====
[[Phần Lan]] được giữ độc lập với Liên Xô và ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1948, Phần Lan ký hiệp ước với Liên Xô, cam kết không gia nhập bất kỳ liên minh quân sự nào để chống Liên Xô.
 
[[Nam Tư]] cũng tương đối độc lập khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên quốc gia này vẫn dưới sự lãnh đạo của một chính quyền cộng sản với người lãnh đạo Josip Broz, hay còn được biết đến như là [[Josip Broz Tito|Tito]]. Tito chủ trương xây dựng [[chủ nghĩa xã hội]] không dựa vào Liên Xô và không áp dụng mô hình kinh tế của Liên Xô giống như các nước Đông Âu khác. Vào năm 1948, [[Stalin]] muốn lật đổ Tito nhưng thất bại và chấp nhận sự lãnh đạo của Tito.
 
Tóm lại, sau [[chiến tranh thế giới thứ 2]], một loạt các nhà nước [[xã hội chủ nghĩa]] thân [[Liên Xô]] đã được thành lập ở [[Đông Âu]], bao gồm:
 
*[[Cộng hòa Nhân dân Albania]] (11 tháng 1 năm 1946)
Hàng 172 ⟶ 308:
Trong một bài diễn văn vào tháng 2 năm [[1946]]. Stalin khẳng định sự thành công của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản sẽ bị sụp đổ. Mặc dù sẽ phải trải qua nhiều năm trước khi có đủ lực lượng vũ trang để đối đầu với Mỹ, Liên Xô vẫn thúc đẩy sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách ủng hộ các phong trào cánh tả, các phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước Tây Âu.
 
Một tháng sau, để đáp trả, [[Winston Churchill]] (lúc này không còn là thủ tướng, nhưng vẫn là một nhân vật có tiếng nói mạnh mẽ trong chính trị Anh) đưa ra ý kiến phản bác lại Stalin, và sự thành lập "Bức màn Sắt" là một biểu tượng cho sự chia cắt giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau ở châu Âu lúc này. [[Churchill]] cũng kêu gọi [[Mỹ]] tiếp tục ngăn chặn [[Stalin]] lôi kéo các nước khácvào bên châukia Âu theo chủ nghĩa cộng sản,của điều mà ông gọi là bức màn, nơi chủ nghĩa cộng sản đang ngự trị ở phía Đông châu Âu.
 
== Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh ==
Hàng 303 ⟶ 439:
{{chính|Xâm lược vịnh con Lợn|Khủng hoảng tên lửa Cuba}}
 
Hy vọng lặp lại thành công của [[Guatemala]][[Iran]] năm 1961, [[CIA]], viện dẫn cuộc di tản quy mô lớn tới Hoa Kỳ sau khi [[Fidel Castro|Castro]] lên nắm quyền, đã huấn luyện và trang bị một nhóm vũ trang là người Cuba lưu vong đổ bộ xuống [[Vịnh con Lợn]], nơi họ tìm cách tạo ra một cuộc nổi dậy chống chế độ Castro. Không quân Mỹ cũng tham gia ném bom trong sự kiện này, làm khoảng 2000 - 4000 thường dân Cuba thiệt mạng. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã thất bại nặng nề. Sau đó, Casto công khai tuyên bố ông là một người [[Marxist]] - [[Chủ nghĩa LeninLeni|Leninist]] và tạo lập Cuba trở thành [[Nhà nước cộng sản|nhà nước Cộng sản]] đầu tiên tại châu Mỹ và tiếp tục quốc hữu hoá các ngành công nghiệp chính của đất nước.
 
Chính phủ Liên Xô nắm lấy cơ hội từ cuộc xâm lược bất thành như một lý lẽ để thuyết phục Fidel cho phép quân đội Liên Xô đóng quân ở Cuba. Họ cũng quyết định đặt các [[Tên lửa tầm trung|tên lửa hạt nhân tầm trung]] ở Cuba, các tên lửa này đủ gần để có thể tấn công và hủy diệt lãnh thổ Hoa Kỳ. Liên Xô coi việc đặt các hệ thống tên lửa hạt nhân tại Cuba là một cách để đáp trả lại việc Mỹ bố trí các hệ thống tương tự tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Hàng 383 ⟶ 519:
{{cần nguồn tham khảo}}
{{chính|Chiến tranh Việt Nam|Quá trình can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam}}
Nguyên nhân cuộc chiến tranh tại Việt Nam một phần là bắt nguồn từ cuộc Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên điều này không được thể hiện rõ ràng vì nó còn thể hiện là một cuộc chiến nhằm giành độc lập cho đất nước và [[giải phóng dân tộc]]. Tinh thần độc lập dân tộc là yếu tố cơ bản giúp [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] chiến thắng chứ không phải nhờ ưu thế tư tưởng hay quân sự. Bản thân [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] là một tổ chức đoàn kết rộng rãi, không chỉ những người cộng sản mà còn cả những thành phần dân tộc chủ nghĩa chống lại sự hiện diện của ngoại bang là Hoa Kỳ. Trung Quốc, đồng minh của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã từng đề nghị đem quân sang trực tiếp chiến đấu như ở Triều Tiên, song các lãnh đạo [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã từ chối với lý do ''"nợ tiền của thì sẽ trả được chứ nợ xương máu thì không thể trả được"'',{{fact|date = ngày 17 tháng 7 năm 2014}} hàm ý nếu cho phép Trung Quốc tham chiến, một quân đội ngoại bang giống Hoa Kỳ, sẽ làm mất đi tính chất giải phóng dân tộc của cuộc chiến.
 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong giai đoạn 1955-1964 đã có bước phát triển nhanh, nhưng về cơ bản vẫn là một quốc gia lạc hậu hơn so với quốc gia cùng phe, trong khi đó các lãnh thổ mà Mỹ kiểm soát ở miền Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Trong thập niên 1950, nền kinh tế ở miền Nam có đạt được một số thành tựu ban đầu, song nói chung vẫn lạc hậu so với các nước tư bản phương Tây, vẫn phải phụ thuộc đáng kể vào viện trợ của Mỹ.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh tại Việt Nam một phần là bắt nguồn từ cuộc Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên điều này không được thể hiện rõ ràng vì nó còn thể hiện là một cuộc chiến nhằm giành độc lập cho đất nước và giải phóng dân tộc. Tinh thần độc lập dân tộc là yếu tố cơ bản giúp [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] chiến thắng chứ không phải nhờ ưu thế tư tưởng hay quân sự. Bản thân [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] là một tổ chức đoàn kết rộng rãi, không chỉ những người cộng sản mà còn cả những thành phần dân tộc chủ nghĩa chống lại sự hiện diện của ngoại bang là [[Hoa Kỳ]]. [[Trung Quốc]], đồng minh của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã từng đề nghị đem quân sang trực tiếp chiến đấu như ở [[Triều Tiên]], song các lãnh đạo [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã từ chối với lý do ''"nợ tiền của thì sẽ trả được chứ nợ xương máu thì không thể trả được"'',{{fact|date = ngày 17 tháng 7 năm 2014}} hàm ý nếu cho phép Trung Quốc tham chiến, một quân đội ngoại bang giống Hoa Kỳ, sẽ làm mất đi tính chất giải phóng dân tộc của cuộc chiến.
 
[[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đi theo con đường [[Xã hội Chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]], trong giai đoạn 1955-1964 đã có bước phát triển nhanh, nhưng về cơ bản vẫn là một quốc gia lạc hậu hơn so với quốc gia cùng phe, trong khi đó các lãnh thổ mà [[Mỹ]] kiểm soát ở [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]] đi theo con đường [[tư bản chủ nghĩa]]. Trong thập niên 1950, nền kinh tế ở miền Nam có đạt được một số thành tựu ban đầu, song nói chung vẫn lạc hậu so với các nước tư bản phương Tây, vẫn phải phụ thuộc đáng kể vào viện trợ của Mỹ.
 
Cuộc chiến ở Việt Nam trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh được cả hai cường quốc lúc bấy giờ là Liên Xô và Hoa Kỳ đưa ra những nhận định khác nhau. Hoa Kỳ cho rằng sự tham chiến của quân đội Mỹ, viện trợ chiến phí cho [[thực dân Pháp]] và sau đó là Việt Nam Cộng hòa là để ngăn chặn sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam nói riêng cũng như tại châu Á nói chung theo [[thuyết domino|thuyết Domino]] của Hoa Kỳ. Đó cũng chính là lý do quân đội Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh tại Việt Nam cũng như trực tiếp đưa quân đội tham chiến trên chiến trường. Liên Xô thì cho rằng việc họ làm là muốn giúp nhân dân Việt Nam nói riêng (cũng như các nước thế giới thứ ba nói chung) giành độc lập và chống lại [[chủ nghĩa thực dân mới]] của tư bản phương Tây, điều mà họ đã làm trong suốt [[Chiến tranh Đông Dương]] trước đó. Liên Xô đã ra sức giúp đỡ cho [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] vũ khí, cố vấn huấn luyện... nhằm ủng hộ công cuộc đấu tranh giành độc lập đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 
Sau này, [[Robert McNamara|Robert S. McNamara]], [[Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ]], một trong những người góp phần hoạch định chính sách của Mỹ trong cuộc [[chiến tranh Việt Nam]] đã thừa nhận rằng: ''"Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi đã mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy".'' Và, [[Robert McNamara|McNamara]]Mc.Namara cho nguyên nhân sai lầm đó là vì Mỹ đã ''"hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh dân tộc chủ nghĩa trong phong trào của [[Hồ Chí Minh]]''.".<ref>Robert S. Mc Namara Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 12, 45.</ref> Sử gia [[Jonathan Neale]] thì cho rằng chính sách [[chống Cộng]] của [[chính phủ Mỹ]] chỉ là để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ, nhằm giúp các tập đoàn này kiểm soát tài nguyên tại khu vực [[Đông Nam Á]]<ref>"These states of capitalist countries were a thread not so much because they called themselves "socialist", but because they were competing capitalist powers and their market were largely closed to American business." - Sử gia Jonathan Neale</ref>.
 
Như vậy có thể nói tính chất của Chiến tranh Việt Nam là đa diện. Đối với đại đa số người Việt Nam, mục tiêu của cuộc chiến là nhằm giành [[độc lập dân tộc]] trước sự can thiệp và chia cắt đất nước đến từ Hoa Kỳ. Còn với Hoa Kỳ, đó là tuyến đầu để họ thực hiện tham vọng kiểm soát vùng Đông Nam Á trong thời kỳ từ năm 1955 đến 1975.