Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giao Châu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 14:
Năm 210, [[Tôn Quyền]] sai quan là [[Bộ Chất]] sang làm thứ sử Giao Châu, Thái thú Sĩ Nhiếp tuân phục nhà [[Đông Ngô]], giữ chức Tả tướng quân<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt03.html|title=Đại Việt sử ký toàn thư, tập 4.}}</ref>.
 
Sau khi Sĩ Nhiếp chết (226), [[Đông Ngô]] đã chia Giao Châu ra làm hai châu: [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô cho [[Lã Đại|Lữ Đại]] (Lã Đại) làm Thứ sử và Giao Châu (mới) gồm các quận [[Hợp Phố]], [[Giao Chỉ]], [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]]<ref name="TT15">[http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%E5%8D%B7015 Tấn thư, quyển 15: Địa lý chí hạ]</ref> cho Đái Lương làm Thứ sử. Trần Thì làm Thái thú Giao Châu thay Sĩ Nhiếp<ref name=":0" />. Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là ĐáiĐới Lương và thứ sử [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] là [[Lã Đại|Lữ Đại]] cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Sau đó Đông Ngô lại sáp nhập [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] với Giao Châu như cũ<ref>Đến năm 264 mới chia lại thành [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]]) và Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long Uyên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]])</ref>, phong [[Lữ Đại]] làm thứ sử Giao Châu. Lữ Đại tiến quân đến quận Cửu Chân tàn sát hàng vạn người. Giao Châu mới gồm có 7 quận: là 4 quận cũ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 3 quận mới: [[Tân Xương, Giao Châu|Tân Xương]], [[Vũ Bình, Giao Châu|Vũ Bình]] và [[Xứ Nghệ|Cửu Đức]]<ref name="TT15" />, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và [[bán đảo Lôi Châu]] thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay (ba quận mới được thành lập thời [[Tôn Hạo]]<ref name="TT15" /> và giữ nguyên đến thời [[nhà Tấn]]).
 
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của [[Bà Triệu|Triệu Thị Trinh]] (tức Bà Triệu) bị thứ sử Giao Châu là [[Lục Dận]] ([[Đông Ngô]] - cháu [[Lục Tốn]]) dập tắt.
 
Thái thú [[Tôn Tư]] (孫諝) cai trị Giao Châu tàn ác, dân chúng quận Giao Chỉ và Nhật Nam nổi dậy. Vua Đông Ngô là [[Tôn Hưu]] sai Đặng Tuân sang làm sát chiến để giám sát Tôn Tư nhưng cả hai lại cùng hợp tác vơ vét của cải nhân dân. Năm 263, [[Lã Hưng]] (Lữ Hưng - Lü Xing 呂興), viên quan ở quận Giao Chỉ, cùng hào kiệt nổi dậy giết chết Tư và Tuân, mang quận Giao Chỉ về hàng [[Tào Ngụy]] dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Đến năm 264, trước hành động của Lã Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Ngô Cảnh Đế [[Tôn Hưu]] vội chia tách Giao châu thành hai châu [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]]) và Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long UyênBiên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]). Giao châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
 
Cuối năm 263, [[Tào Ngụy]] tiến hành [[Chiến tranh Thục-Ngụy (263-264)|chiến dịch tiêu diệt Thục Hán]] thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là [[Tư Mã Chiêu]] nhân danh Ngụy Nguyên Đế [[Tào Ngụy Nguyên Đế|Tào Hoán]] phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, coi việc binh ở Giao châu và sai [[Hoắc Dặc]] (tướng cũ [[Thục Hán]]) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn ở Nam Trung<ref>[[Vân Nam]] hoặc [[Quảng Tây]]?</ref>, không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống giết chết.
 
Năm 265, [[Nhà Tấn]] cướp ngôi nhà [[Tào Ngụy|Ngụy]], cử [[Dương Tắc]] làm thái thú Giao Chỉ, [[Đổng Nguyên]] làm thái thú Cửu Chân. Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành [[Chiến dịch Giao-Quảng|chiến tranh với Tấn]] để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu.
 
[[Đào Hoàng]], bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu. Giao Châu lại thuộc Đông Ngô nhưng vẫn chia riêng với Quảng Châu. Sau này [[Tôn Hạo]] phong cho Đào Hoàng làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn ([[280]]) thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành [[Chiến dịch Giao-Quảng|chiến tranh với Tấn]] để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu, gọi là [[Chiến dịch Giao-Quảng|Giao Quảng chi loạn]].
 
Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu. Giao Châu lại thuộc Đông Ngô nhưng vẫn chia riêng với Quảng Châu. Sau này [[Tôn Hạo]] phong cho Đào Hoàng làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn ([[280]]) thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
 
Năm 353, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu (nhà [[Nhà Tấn|Đông Tấn]]) đánh vua [[Lâm Ấp]] do nước này hay ra cướp phá hai quận Nhật Nam và Cửu Chân. Năm 413, vua [[Lâm Ấp]] là Phạm Hồ Đạt lại ra cướp phá Cửu Chân, bị thứ sử Đỗ Tuệ Độ đuổi đánh, chém được tướng Lâm Ấp bắt sống hơn 100 người.