Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lư Tuần”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lư Tuần''' ([[chữ Hán]]: 卢循, ? – [[411]]), [[tên tự]] là '''Vu Tiên''', tên lúc nhỏ là '''Nguyên Long''', người huyện Trác, Phạm Dương <ref>Nay là huyện [[Trác]], [[Hà Bắc, (Trung Quốc)|Hà Bắc]]</ref>. Ông đã kế tục anh vợ [[Tôn Ân]] lãnh đạo nhân dân Chiết Đông chống lại chính quyền [[Đông Tấn]].
 
==Xuất thân==
Lư Tuần xuất thân từ đại tộc Phạm Dương Lư thị. Ông cố là Tư không tòng sự trung lang Lư Trạm nhà [[Tây Tấn]]. Sau [[loạn Vĩnh Gia]], Trạm chấp nhận làm quan nhà [[Hậu Triệu]], làm đến Thị trung, Trung thư giám. Trạm bị [[Nhiễm Mẫn]] giết, ông nội của Tuần là Lư Tài đưa cả nhà chạy xuống miền nam vào khoảng năm 350.
 
Vì có người từng làm quan của [[Ngũ Hồ Thập lục quốc|các chính quyền Hồ tộc]], họ Lư ở Phạm Dương không được chính quyền [[Đông Tấn]] chấp nhận, đến Lư Tuần là đời thứ 3 không được làm quan. Ông đành lấy em gái Tôn Ân, vốn là sĩ tộc bậc thấp của họ Tôn ở Lang Tà., Trongtrong khi nhà Đông Tấn có quy định rất nghiêm ngặt về đẳng cấp trong hôn nhân, cho thấy tình cảnh của Lư Tuần lúc bấy giờ.
 
==Sự nghiệp==
Lư Tuần mắt sáng, ánh nhìn linh lợi., giỏi thư pháp và cờ vây. [[Sa môn]] Tuệ Viễn có tài nhìn người, sau khi gặp ông thì nói: “Anh tuy ra vẻ hiền lành, nhưng trong lòng lại muốn làm việc bất quỹ (tức là muốn làm loạn).” Tôn Ân khởi binh, Tuần cũng tham gia bày mưu. Ân tính tàn nhẫn nghiêm khắc, Tuần nhiều lần căn ngăn, bộ hạ phần lớn được nhờ. Ân chết rồi, tàn dư nghĩa quân đề cử Tuần làm chủ.
 
Sau khi chấp chính, [[Hoàn Huyền]] tạm lấy Lư Tuần làm Vĩnh Gia thái thú, đồng thời vào tháng 5 năm Nguyên Hưng đầu tiên ([[402]]) lại lấy Kiến vũ tướng quân, Hạ Bi thái thú [[Lưu Dụ]] đến đóng quân ở Chiết Đông, khống chế Tuần. Tháng giêng năm sau (402), ông khởi binh đánh chiếm Đông Dương, bị Lưu Dụ nhanh chóng đánh bại. Bị Lưuquan Dụquân truy kích dữ dội, Lư Tuần quẫn quá, ra [[Nam Hải]] đi [[Quảng Châu]].
 
Tháng 7 năm Nguyên Hưng thứ 3 ([[404]]), nghĩa quân lên bờ đánh Châu trị [[Phiên NgungNgu]], vây thành hơn trăm ngày thì hạ được thành, giết hơn 3 vạn quân dân, bắt sống thứ sử Ngô Ẩn Chi. Tháng 10, ông sai anh rể là [[Từ Đạo Phúc]] đánh chiếm quận Thủy Hưng. Lư Tuần tự xưng Bình nam tướng quân, coi việc Quảng Châu.
 
Khi ấy [[Lưu Dụ]] mới bình định [[Hoàn Huyền]], đang cần củng cố quyền lực, chưa thể tiến hành chính thảo, vào tháng 4 năm Nghĩa Hi đầu tiên (405), nhậm mệnh cho Lư Tuần làm Chinh lỗ tướng quân, Quảng Châu thứ sử, Bình việt trung lang tướng. Sau khi thụ mệnh, Tuần sai sứ hiến cống cho Lưu Dụ “Ích trí tống” (tạm dịch: bánh nếp thêm khôn), Dụ cũng tặng lại cho Tuần “Tục mệnh thang” (tạm dịch: canh giữ mạng).
 
Năm Nghĩa Hi thứ 5 ([[409]]), [[Lưu Dụ]] bắc phạt [[Nam Yên]], [[Từ Đạo Phúc]] viết thư khuyên Tuần khởi binh. Nhưng ông đã quen an nhàn, cho rằng mình có thể chiếm cứ 1 góc [[Lĩnh Nam]] mà quan sát nội loạn của nhà [[Đông Tấn]]. Từ Đạo Phúc tự mình đến Phiên NgungNgu, nói rõ lợi hại. Lư Tuần tuy không muốn, nhưng chẳng còn cách nào, đành nhận lời. Vì ông do dự mãi, đến tháng 2 năm sau mới hành động, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi, tiến đến vây bức kinh đô Kiến Khang.
 
Biết tin Lưu Dụ đã trở về, Tuần đâm ra úy kỵ, muốn quay về Tầm Dương, không theo kế hoạch lên bờ quyết 1 trận tử chiến của Từ Đạo Phúc. Chẳng bao lâu sau, Lưu Dụ hoàn tất hệ thống phòng ngự của Kiến Khang, nghĩa quân không sao công phá nổi, sức mỏi lương mỏihết, bắt buộc phải lui chạy.
 
==Kết cục==
Dòng 44:
[[Thể loại:Khởi nghĩa nông dân]]
[[Thể loại:Khởi nghĩa Trung Quốc]]
[[Thể_loại:Người Hà Bắc (Trung Quốc]]