Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa xã hội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thêm {{pp-vandalism}} (TW)
n →‎Thế kỷ 19 đến nay: chính tả, replaced: hai hai → hai using AWB
Dòng 25:
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động cuối [[thế kỷ 19]]. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về những phê phán của các nhà phê bình xã hội [[châu Âu]] khi họ phê bình [[chủ nghĩa tư bản]] về quyền tư hữu. Đối với [[Karl Marx]], người đã có công lớn trong việc xây dựng phong trào xã hội chủ nghĩa hiện đại, thì chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế - xã hội sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của thiểu số các nhà tư bản sang tay xã hội. Theo [[Friedrich Engels]] thì phong trào xã hội chủ nghĩa năm 1847 là một phong trào tư sản, chủ nghĩa cộng sản là một phong trào của công nhân, vì vậy [[Karl Marx]] và Engels ưa chuộng từ cộng sản hơn. Mãi cho tới 1887 cả các công đoàn Anh mới tự nhận là theo xã hội chủ nghĩa.<ref>Friedrich Engels: Vorwort zur deutschen Ausgabe von 1890 (Auszug) zum „Kommunistischen Manifest“, Marx/Engels, Ausgewählte Schriften, Bd. I, Berlin 1968, S. 21ff.</ref> Theo nhà báo [[Hoàng Đạo (nhà văn)|Hoàng Đạo]] (tức Nguyễn Tường Long) trên báo Ngày nay ngày 3 tháng 4 năm 1937, thì "''Năm ấy, Marx và Engels, đồng chí của ông ta, xuất bản [[Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản]] nói về nguyên tố của chủ nghĩa xã hội. Hai ông dùng chữ "cộng sản" là vì muốn phân biệt cho rõ ràng chủ nghĩa xã hội khoa học với những chủ nghĩa xã hội duy tâm mà thời ấy người ta thường gọi chung là "xã hội". Dần dà, những chủ nghĩa duy tâm bị lu mờ, và đến năm 1867, lúc ông Karl Marx cho xuất bản tập thứ nhất quyển "Tư bản" (Le Capital), thì những người theo chủ nghĩa duy tâm không còn mấy nữa''".
 
Có rất nhiều tư tưởng và phong trào được gọi, hay tự gọi, là chủ nghĩa xã hội nhưng từ thế kỷ 19 đến nay, những người theo chủ nghĩa xã hội đã không thể đưa ra một tư tưởng hay một kế hoạch chung. Trái lại, những người theo chủ nghĩa xã hội tự chia họ ra nhiều trường phái khác nhau và đôi khi đối nghịch nhau, nhất là giữa những người theo [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và những người theo [[chủ nghĩa cộng sản]]. Kể từ thế kỷ 19 những người theo chủ nghĩa xã hội đã có những quan điểm khác nhau về chủ nghĩa xã hội dưới góc độ một hệ thống kinh tế. Một số người muốn quốc hữu hóa hoàn toàn các phương tiện sản xuất, trong khi những người [[chủ nghĩa xã hội-dân chủ|dân chủ xã hội]] đề nghị chỉ quốc hữu hóa một số kỹ nghệ chính trong phạm vi của một nền [[kinh tế hỗn hợp]] giữa thị trường và nhà nước. Những người theo [[chủ nghĩa cộng sản#Chủ nghĩa Stalin|chủ nghĩa Stalin]], kể cả những người có ấn tượng về mô hình phát triển kinh tế của [[Liên Xô]], đã kêu gọi cho một nền kinh tế tập trung được chỉ huy bởi một nhà nước nắm tất cả quyền sản xuất. Những người khác, trong đó có nhiều người tự gọi mình là cộng sản tại [[Nam Tư]] và [[Hungary]] trong [[thập niên 1980]] và [[thập niên 1990]], nhiều người cộng sản [[Trung Quốc]] sau thời kỳ cải cách và một số nhà [[kinh tế học]] phương Tây, đã đề nghị nhiều dạng của [[chủ nghĩa xã hội thị trường]] nhằm mục đích tìm được sự hòa giải giữa hai lợi thế của quốc hữu hóa và của sức mạnh thị trường<ref>"Market socialism", ''Dictionary of the Social Sciences''. Craig Calhoun, ed. Oxford University Press 2002; và "Market socialism" ''The Concise Oxford Dictionary of Politics''. Ed. Iain McLean and Alistair McMillan. Oxford University Press, 2003. Đọc thêm "Whither Socialism?" của [[Joseph Stiglitz]], Cambridge, MA: MIT Press, 1995 for a recent analysis of the market socialism model of mid-20th century economists [[Oskar R. Lange]], [[Abba P. Lerner]] và [[Fred M. Taylor]].</ref>. Trong khi đó, nhiều người hoạt động công đoàn không tin tưởng vào hình thức chính phủ như [[chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ]], những người theo [[chủ nghĩa Luxemburg]], [[Đảng Xã hội Hoa Kỳ]] (''Socialist Party USA'') cũng như nhiều thành phần của phong trào "[[New Left]]" (Cánh tả Mới) của Mỹ lại muốn phân chia quyền sở hữu nhà nước tại trung ương để trao cho các hợp tác xã hay các hội đồng của các nhóm lao động. Theo Lenin thì nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội là: ''"Làm theo năng lực, hưởng theo lao động"'' còn trong xã hội cộng sản chủ nghĩa (bước phát triển cao hơn của xã hội chủ nghĩa, khi mà sức sản xuất đạt tới trình độ và năng suất cực cao) sẽ là: ''Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu''.<ref>Những phác thảo của V.I.Lênin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Thị Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị, 13 Tháng 4 2016</ref> Sự khác biệt giữa hai hai hình thái xã hội theo lý thuyết của Lenin là chủ nghĩa xã hội là giai đoạn nằm giữa trong quá trình từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng sản]]. Những người theo trường phái chủ nghĩa xã hội khác đưa ra chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh thái kinh tế - xã hội không phải [[chủ nghĩa tư bản]], và không đưa ra mục tiêu tiến đến [[chủ nghĩa cộng sản]]. Một số trường phái chủ nghĩa xã hội vẫn chấp nhận [[đa nguyên]] về kinh tế và chính trị và tạo ra sự bình đẳng xã hội bằng chính sách [[thuế]] và [[an sinh xã hội]] thay vì kinh tế tập thể bắt buộc.
[[Tập tin:Anti-capitalism color.jpg|phải|nhỏ|250px|Áp phích [[Industrial Workers of the World]] của phong trào chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism) dán năm [[1911]]. Hình nói về sự mâu thuẫn [[giai cấp]] giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong xã hội tư bản: dưới cùng là giai cấp lao động phải làm việc để gánh vác lối sống xa hoa cho các giai cấp trên (vua chúa, chính phủ, các nhà tư bản, giáo sĩ và quân đội)]]
Cuộc chiến về lý luận và chính trị giữa những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là trung tâm của các sự kiện thế giới trong suốt thế kỷ XX. Những người theo chủ nghĩa xã hội hay ủng hộ chủ nghĩa xã hội công kích chủ nghĩa tư bản đã gây ra bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, chế độ đẳng cấp, nạn bóc lột lao động, lối sống thực dụng, tha hoá con người. Họ cũng công kích những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản dung dưỡng, dung túng cho nhiều chế độ [[chế độ quân chủ|quân chủ]], [[thần quyền]] (như một số nước [[Trung Đông]] và một số nước khác hiện nay), cho chủ nghĩa [[phong kiến]] và [[địa chủ]], các hủ tục, cho các chế độ [[phân biệt chủng tộc]] (như [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]). Chủ nghĩa tư bản theo họ là cha đẻ cho [[chủ nghĩa thực dân]] và [[chủ nghĩa đế quốc]], hay thao túng kinh tế các nước nghèo đói. Những người chống Cộng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội gây ra nhiều cuộc [[nội chiến]], các cuộc cách mạng (mà họ thường gọi là đảo chính hay nổi loạn), sự cưỡng ép các mô hình kinh tế tập thể hay nhà nước gây nghèo đói, tham nhũng, tước đoạt quyền tư hữu. Họ cho các nạn đói trên diện rộng ở [[Trung Quốc]], [[Campuchia]],... một số nước [[châu Phi]] trước đây là hậu quả của kinh tế hợp tác cưỡng ép. Họ cũng cho chủ nghĩa xã hội cản trở [[tự do kinh doanh]] của người dân, để [[nhà nước]] thao túng toàn bộ các hoạt động xã hội như kinh tế, [[truyền thông]], [[giáo dục]], [[y tế]]..., gây bất bình đẳng, chậm phát triển. Đường lối chống [[tôn giáo]] của một số phái chủ nghĩa xã hội bị xem là cực đoan. Nhiều người chống Cộng cũng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội tạo ra các chế độ cai trị độc đoán ở [[Bắc Phi]], [[Zimbabwe]], [[Syria]], [[Iraq]], [[Myanmar|Miến Điện]] trước đây, các chế độ độc đoán của [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] ([[Liên Xô]]), [[Mao Trạch Đông]] ([[Trung Quốc]]), [[Nicolae Ceauşescu]] ở [[România]],... chế độ diệt chủng [[Pol Pot]] ở [[Campuchia]].<ref name="hup.harvard.edu">{{chú thích sách |title= The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression | editor1-last = Courtois | editor1-first = Stéphane | editor1-link = |coauthors= |year= 1999 |publisher= [[Harvard University Press]] |location= |isbn= 0-674-07608-7 |page= 4 |pages= |url= |accessdate=}}</ref> Cả hai phía chống và ủng hộ chủ nghĩa xã hội đều đổ lỗi cho nhau trong sự xuất hiện của [[chủ nghĩa phát xít]] dù trên thực tế ý thức hệ này mang những đặc điểm của cả cánh hữu lẫn cánh tả và thực hiện một chương trình hành động tương tự với cả hai bên. Sự phát triển của các phong trào [[Hồi giáo cực đoan]] được những người theo chủ nghĩa xã hội cho là nhận được sự khuyến khích của phương Tây để chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng trên thực tế phong trào Hồi giáo có khi cũng chống cả chủ nghĩa tư bản.<ref>[http://www.oxfordislamicstudies.com/article/opr/t236/e0748 Socialism and Islam], Rizwan Hussain, The Oxford Encyclopedia of the Islamic World</ref>
 
Ngược các lực lượng cánh hữu thường tập trung vào các vấn đề [[quyền tự do|tự do]], dân chủ, nhân quyền, hay quyền lợi dân tộc, mà ít coi trọng đến giải quyết các vấn đề về xã hội như phân hóa giàu - nghèo, tình trạng thất nghiệp, hay các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, các lực lượng cánh tả các nước tư bản chú ý nhiều hơn đến các khía cạnh này, đấu tranh nhiều hơn cho các lĩnh vực bình đẳng giới hay bảo vệ môi trường,... và thường ít chú ý hơn đến các vấn đề về chống [[độc tài]] và vi phạm quyền cá nhân, mặc dù tôn trọng dân chủ đại nghị. Tuy nhiên sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, xuất hiện các tư tưởng thiên hữu nhiều hơn trong các lực lượng cánh tả, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về [[dân chủ]] và [[nhân quyền]], và chú trọng vào hiệu quả kinh tế hơn là bình đẳng.<ref> Socialist Planning after the Collapse of the Soviet Union, Allin Cottrell and W. Paul Cockshott, Revue européenne des sciences sociales, T. 31, No. 96, The Socialist Calculation debate after the Upheavals in Eastern Europe (1993), pp. 167-185</ref> Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ thường dựa trên lập trường của [[chủ nghĩa cá nhân]], vì thế họ thường coi trọng các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa tư bản hỗ trợ cho quá trình xóa bỏ nhà nước quân chủ thần quyền ở châu Âu, tuy nhiên nền [[dân chủ đại nghị]] được xây dựng sau đó thường mang nhiều khiếm khuyết và chỉ được hoàn thiện thêm các giai đoạn sau này. Nhìn chung sự xích lại gần nhau của các lực lượng cánh hữu và cánh tả như sự chấp nhận nhiều hơn của [[cánh hữu]] trong vấn đề [[an sinh xã hội]] hay tạo việc làm, tạo điều kiện cho các tổ chức [[công đoàn]] hoạt động, mở rộng phổ thông đầu phiếu, hay cánh tả trong bảo vệ các quyền cá nhân, kể cả quyền tư hữu và kinh doanh đã làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xích lại gần nhau hơn. Chia sẻ quan điểm về dân chủ nhưng bất đồng về vai trò nhà nước là đặc điểm thường thấy ở các nước phát triển của cánh tả và hữu. Cánh hữu không mấy tin tưởng ở nhà nước, tạo không gian lớn hơn cho thị trường tự điều tiết, còn cánh tả muốn nhà nước có vai trò lớn hơn trong điều tiết kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên các mô hình kinh tế của [[cánh tả]] thường chỉ thích nghi trong một số hoàn cảnh nhất định, và được xem là tạo ra năng suất lao động thấp, đặc quyền đặc lợi và tham nhũng do hệ thống quản lý yếu kém ở một số nước, cũng như can thiệp nhà nước thái quá gây bất bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường, xã hội hóa không thực hiện được và hay biến tướng thành nhà nước hóa [[tư liệu sản xuất]], nên ảnh hưởng cánh tả nhiều nơi suy yếu. Song sự trỗi dậy của cánh hữu nhiều nơi đi kèm với [[toàn cầu hóa]] của chủ nghĩa tư bản đã gây ra nhiều hệ quả ở các nước như sự phân hóa xã hội ngày càng lớn, quan hệ sản xuất tư bản vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố bất bình đẳng do luật pháp yếu kém, các chính sách đầu tư nước ngoài ở các nước kém phát triển thường đem lại lợi ích trước mắt nhưng có thể gây tổn hại cho các lợi ích lâu dài bị cánh tả xem là [[chủ nghĩa thực dân mới]], tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, sự suy đồi đạo đức... Các nền dân chủ đại nghị có nhiều ưu điểm nhưng vẫn tồn tại khuyết điểm và tạo điều kiện cho tư tưởng cực đoan phát triển như tư tưởng vô chính phủ (chán ghét nhà nước bất kỳ, không tin tưởng các đảng phái)... hay là các phong trào chính trị tôn giáo cực đoan như phong trào [[Hồi giáo cực đoan]] chống lại chủ nghĩa tư bản hay văn hóa, tôn giáo du nhập từ phương Tây và chủ nghĩa vô thần.<ref>[https://www.fpri.org/article/2006/09/islam-islamism-and-democratic-values/ Islam, Islamism and democratic values], Foreign Policy Research Institute, 2006</ref>
[[Tập tin:1989 CPA 6101.jpg|nhỏ|phải|200px|[[Kwame Nkrumah]], tổng thống đầu tiên của [[Ghana]], một trong những người đề xướng thuật ngữ Chủ nghĩa thực dân mới, ảnh trên tem thư Liên Xô (1989)]]
Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ đắc lực cho [[chủ nghĩa thực dân]] sau các phát kiến địa lý mà chủ yếu là ở các vùng đất mới như châu Mỹ, mặc dù nó được xem là hệ quả của chính sách các chính quyền quân chủ đương thời nhiều hơn. Các công ty tư bản còn lập ra các hải đội để xâm chiếm [[thuộc địa]] ở các vùng đất nghèo nàn, lạc hậu hơn như châu Á, châu Phi... Tuy nhiên các quá trình xâm chiếm chiếm thuộc địa bị gián đoạn trong giai đoạn [[châu Âu]] xảy ra nhiều cuộc cách mạng, chiến tranh đầu thế kỷ XIX. Chủ nghĩa tư bản một lần nữa góp phần tạo dựng lên [[chủ nghĩa đế quốc]] nửa sau thế kỷ XIX, mặc dù nó hay được xem là hệ quả của chính sách quân phiệt, hay dân tộc nước lớn nhiều hơn. Quá trình thực dân hóa kết thúc vào khoảng những năm 1960. Nhìn chung chủ nghĩa tư bản đã tạo ra quá trình hiện đại hóa ở các nước phương Tây trong đó có sự tác động từ lực lượng cánh tả, nhưng lại được xem là có trách nhiệm khi cùng tư tưởng dân tộc nước lớn tạo dựng nên các thuộc địa được cai trị hà khắc cho dù hệ quả gián tiếp là các tư tưởng [[dân chủ]] cũng xâm nhập vào các vùng đất này đi kèm với sự suy yếu của chế độ quân chủ đồng thời thúc đẩy quá trình hiện đại hóa kinh tế - xã hội - chính trị ở các thuộc địa.<ref>[https://www.marxists.org/archive/marx/works/1862/07/colonialism-modernization.htm Colonialism and Modernization], Karl Marx, 1862</ref> Trong quá trình phi thực dân hóa, do lo ngại các phong trào [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]] hay cộng sản chủ nghĩa, các phong trào tôn giáo cực đoan chống tư bản và mong muốn duy trì ảnh hưởng ở các nước mới độc lập, đặc biệt là tạo điều kiện cho các tập đoàn tư bản đầu tư nên các nhà nước thực dân khi trao trả độc lập thường thỏa hiệp với các tổ chức [[chủ nghĩa dân tộc|dân tộc chủ nghĩa]] ôn hòa, hay các chính quyền bản xứ đang tồn tại, hoặc các lực lượng chống cộng sản, hay chống tư tưởng [[tôn giáo]] cực đoan. Nhiều nơi, phong trào phi thực dân hóa chỉ được tiến hành từng bước theo hình thức tự quản đến tự trị rồi độc lập. Một loạt các chế độ [[độc tài]] dựng lên dưới sự ủng hộ hay dung dưỡng của phương Tây ở nhiều nước mới thoát ra khỏi chế độ thực dân như ở [[châu Phi]], hoặc sự duy trì của các chế độ mang màu sắc phong kiến, hoặc quân chủ, hoặc tôn giáo cực đoan như ở [[Trung Đông]], được xem là thành trì chống lại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chế độ [[phân biệt chủng tộc]] ở Nam Phi có sự dung dưỡng của phương Tây (cụ thể là nước Anh), là tiền đồn chống lại các tư tưởng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản phát triển ở miền nam châu Phi, bao gồm cả ở Nam Phi. Tuy phản đối các chế độ độc tài ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha một thời nhưng do các chính sách chống cộng sản nên các nhà nước này vẫn được sự chấp nhận phần nào ở phương Tây. Các công ty đa quốc gia thường thỏa hiệp với các chính quyền phong kiến hay nửa phong kiến, các chế độ quân sự hay dân tộc chủ nghĩa phi dân chủ, hay các chính quyền của đảng cộng sản, hay các đảng mang màu sắc xã hội chủ nghĩa khác lãnh đạo, miễn là có lợi cho họ. Các lý thuyết tự do, dân chủ thường bị những trùm [[tài phiệt]] bỏ qua nếu điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Trong một vài thập kỷ gần đây, vì các mục đích chính trị và kinh tế, phương Tây thường hay can thiệp vào các vấn đề nội bộ ở các nước kém phát triển với danh nghĩa "tự do, dân chủ hay nhân quyền", bao gồm cả các nước đồng minh của họ trong [[chiến tranh Lạnh|chiến tranh lạnh]] chống chủ nghĩa cộng sản trước đây.